Henry Kissinger,
Nhà Ngoại Giao Hai Mặt
Bắc Vũ
Đầu tháng 12, 2002 tổng thống
Bush có ý muốn tiến cử ông Henry Kissinger, một
thành
viên thâm niên của Hội Đồng Đối Ngoại (Council
on Foreign Relations) (CFR), mà cũng là một bô
lão kỳ cựu
trong bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ; để đứng ra
thành lập một hội đồng điều tra những
sai lầm về một số cơ quan tình báo của chính
phủ liên bang Hoa Kỳ. Khi ông tổng thống Hoa Kỳ đưa
ra ý kiến như vậy, tất nhiên ai cũng thấy là
nền an ninh của Hoa Kỳ đang gặp phải bế
tắc trầm trọng và cần phải được
giải quyết cấp thời trước khi được
phơi bày ra trước công chúng.
Một ông tổng thống giàu
kinh nghiệm có thể không bao giờ hành động như
vậy, vì trước khi nhờ ông Kissinger nhận công
tác
nầy, chắc cũng đã phải dư biết ông
Kissinger làm sao có thể nhận một chức vụ chỉ
đem lại phiền toái và thù hằn cho ông ta
mà thôi, chứ
không co lợi lộc gì cả thì làm sao ông
ta chấp nhận
cho được? Với một con người quỷ
quyệt như ông Kissinger dễ gì chịu nhận làm một
công tác đi ngược lại quyền lợi của ông
ta trên chính trường Hoa Kỳ và quốc tế? Các
bạn
cũng nên lưu ý một trong những lý do quan trọng
gây
ra khủng hoảng trong ngành tình báo Hoa Kỳ
là việc
chính trị hóa các cơ quan tình báo
bởi nhiều phe phái khác
nhau như Hội Đồng Đối Ngoại (CFR)
(Council on Foreign Relations) chẳng hạn, chỉ muốn nắm
trọn vẹn vào trong tay họ khoảng gần mười
hai cơ quan tình báo, phản gián, thay vì
được chỉ
đạo do những kẻ không thuộc phe phái nào hết,
và chính đó cũng là ý kiến chung của
một số
khá đông các nhà lập pháp trong Quốc
Hội; và họ còn
hăm he là sẽ bỏ phiếu chống nếu ông
Kissinger không chịu công bố danh sách các
hiệp hội và
cá nhân nằm trong tổ hợp Kissinger Associates, một tổ
chức được thành lập để bênh vực
quyền lợi của các thành viên có đóng
tiền cho công
ty của ông ta thành lập từ năm 1982, sau khi ông ta
rời
khỏi ghế bộ trưởng Ngoại Giao của
chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ.
Tám
ngày
sau khi được tổng thống W. Bush mời nhận
chức vụ mới,
Kissinger đã tin cho ông Bush hay là
ông ta không thể nào
tiết lộ danh sách các thành viên trong hiệp
hội của
ông ta, gồm có từ các cá nhân đến
các công ty đa quốc
(multinational) thường nhờ đến sự vận động
và giúp đỡ của ông ta.
...
Để
chứng minh cho bạn đọc thấy ảnh hưởng
của công ty Kissinger Associates lan khắp thế giới, tôi
xin phép trích lại một đoạn trong bài tham luận
của
tôi viết về “ Tương
Lai Chính Trị Của Nam Dương Đi Về Đâu”,
đăng trong tạp chí Cách Mạng, số 16, ra vào đầu
năm 2000:
“Nói
về
đầu tư ngoại quốc ở Irian Jaya mà không đề
cập đến công ty Freeport Indonesia Company (FIC) là một
thiếu sót rất lớn cũng như khi nói đến đầu
tư ở Việt Nam mà không đề cập đến
công ty Michelin, chủ nhân của những đồn điền
cao su mênh mông, bát ngát, chạy từ Dầu
Giây, Xuân Lộc
lên Lộc Ninh, Hớn Quản ở Nam Việt Nam, rồi
qua Kompong Cham, Prek Kak, Chlong, Kratié ở Cao Miên.
Công ty Michelin lớn
như vậy nhưng vốn và kỹ thuật của họ
không bằng được 10% so với công ty Freeport
Indonesia Company là một chi nhánh của đại công ty
Hoa Kỳ
McMoran Copper & Gold ở New Orleans, Hoa Kỳ và đang khai
thác mỏ Grasberg trên độ cao hơn 4000 thước,
trong rặng núi Sudirman, giữa trung tâm Irian Jaya, rất
giàu
về quặng bạc, đồng và vàng. Hiện
nay, công ty này đang khai mỏ vàng lớn nhất thế
giới
trong núi nầy. Riêng trong năm 1995, công ty
Phải
thành thực mà nói, Nam Dương chỉ coi Irian Jaya
như
một thuộc địa dùng để khai thác tài nguyên
thiên nhiên của giải đất nầy, bằng cách chiếm
dần đất của thổ dân Papua, đồng thời
thi hành triệt để chính sách bần cùng
hóa họ, làm
cho họ luôn luôn sống trong tình trạng thiếu thốn
đủ mọi mặt.
Cũng
vì chủ trương như vậy, cho nên chính quyền Nam
Dương không lý gì đến việc bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên bằng cách khai thác
có kế hoạch cũng
như bảo vệ môi sinh để tránh việc làm ô nhiễm
sông ngòi và không khí.
Cho
đến
bây giờ, hơn phân nửa diện tích rừng của
Iran Jaya - vào khoảng 20 triệu mẫu tây - đã được
chính quyền bán cho các công ty khai
thác lâm sản ngoại quốc
để họ đốn cây mà không buộc họ phải
trồng lại rừng. Theo Cơ Quan Quốc
Tế về Thực Phẩm (FAO) thì Nam Dương đứng
vào hàng thứ nhì trên hoàn cầu về
tiêu diệt các loại
dã thú hiếm có. Năm 1992, Tổ Chức Quốc Tế
Bảo Vệ Môi Sinh tố cáo là trong năm nói
trên, ở
Iran Jaya, 120,000 tấn vật liệu phế thải hầm
mỏ được đổ ra sông Ajkwe hằng ngày làm
cho 50 cây số vuông rừng dọc theo ven sông này
bị nhiễm
độc, làm cho cá và dừa nước chết, khiến
cho thổ dân sinh sống bằng những thứ đó không
có gì ăn, nên bị chết đói khá nhiều.
Trong những
năm 1998 và 1999, rừng Nam Dương bị đốt
cháy đến hằng triệu mẫu mà không dập tắt
được, khiến khói bay tỏa khắp vùng Đông
Nam Á, khiến không khí bị ô nhiễm làm
cho dân chúng ở
Việt Nam, Mã Lai, Singapore và Thái Lan bị ngạt
thở nên
mang bệnh rất nhiều.
Tức
nước
thì vỡ bờ, thổ dân Papua nổi loạn để đòi
quyền sống và quyền tự do theo
đạo Thiên Chúa. Nhưng chính
quyền Nam Dương
đã phản ứng bằng cách dùng biện pháp mạnh
của
mọi chế độ thực dân, đó là dùng quân
đội
để đàn áp. Và nhiệm vụ đó được
nhà nước giao cho sư đoàn Pattimura, đơn vị
phụ trách giữ gìn an ninh
trật tự
cho công ty khai thác hầm mỏ Freeport Indonesia Company.
Chính Hội
Đồng Viện Trợ Hải Ngoại của Úc Đại
Lợi đã tố cáo trước dư luận quốc tế
rằng quân đội của sư đoàn Pattimura đã bắt
bớ, giam cầm, tra tấn và thủ tiêu đàn ông lẫn
đàn bà Papoua đi biểu tình đòi quyền sống
và
quyền tự do theo đạo Thiên Chúa.....
Để
bảo vệ quyền lợi của công ty về phương
diện xã hội, văn hóa và môi sinh, Freeport
Indonesian Company đã
bỏ ra 500,000 mỹ kim để mướn
hai công ty Hoa Kỳ: AS Labat Anderson và Dames & Moore
để
lo về việc kiểm tra. Nhưng vào cuối năm 1995,
công ty bảo hiểm công cộng Overseas Private Investment
Corporation (OPIC) - một hội viên hùn vốn với Freeport
từ 25 năm qua, đột nhiên tuyên bố từ chối
không chịu bảo đảm cho công ty về những hiểm
nguy do môi sinh hoặc do chính trị gây nên mặc
dầu với
giá tiền 100 triệu mỹ kim. Quýnh
quá, ông
Jim “Bob Moffett, chủ tịch “công ty mẹ” đã đặc
phái ông Henry Kissinger - cố vấn đặc biệt của
công ty - đến ngay tòa Bạch Ốc để thương
lượng với tổng thống
Cũng
nên
ghi nhận là công ty
oOo
Sinh ngày 27 tháng 5 1923 ở Fuerth (Đức
quốc).tại nhà số 23 đường Mathildenstrasse,
Henry Kissinger theo gia đình qua tỵ nạn chính trị tại
Hoa Kỳ vào năm 1938. Vào học đầu
tiên tại trường trung học
Thế
rồi
một đêm nọ, nhân viên cơ quan phản gián Đồng
Minh đã rình bắt được tại trận tên Ernst
Bosenhard đang trao một số tài liệu mật cho nhân
viên tình báo Liên Xô; tên nầy
lại là người cầm đầu
ban thẩm vấn Hoa kỳ về các tù binh bị quân đội
Hoa Kỳ bắt giữ. Bí danh của hắn ta là “Bar”. Theo tài liệu tịch thâu tại trận thì
tên
Bosenhard có thêm một đồng lõa nữa có
bí danh là “Bor” và
rơi đúng vào ông Kissinger. Nhưng vì không
có bằng chứng gì cụ thể về ông nầy cả
nên không truy tố ông ta được, tuy nhiên
ông ta cũng
bị buộc phải rời khỏi cơ quan phản gián
Hoa Kỳ.
Còn Bosenhard bị đưa ra tòa án
quân sự và bị án tù nhiều năm; Riêng
về Kissinger
thì được đưa về Hoa Kỳ vài tuần sau
đó, rồi được giải ngũ
và vẫn được Fritz Kramer tiếp tục bảo
trợ.
oOo
Năm năm sau vụ rắc rối
xảy ra ở Obberammergau, Kissinger đã trở thành một
ngôi sao sáng tại đại học đường Harvard
và được sự chú ý của Nelson rồi đến
của David Rockefeller. Một sự tin cậy
đặc biệt không suy giảm qua thập niên nầy đến
thập niên khác. Rồi những
người
nầy giới thiệu ông ta vào Hội Đồng Đối
Ngoại (CFR - Council on Foreign Relations) để rồi về
sau ông ta được đề bạt lên làm một trong
12 vị giám đốc thường trực của cơ
quan nầy. Ông cũng có chân trong Viện
Nghiên Cứu
Ford và đã vận động với viện nầy để
trợ cấp cho tạp chí “Confluence” 26.000 mỹ kim, tạp
chí nầy khét tiếng thiên tả và thân
Liên Xô ra mặt và đã
được hai cơ quan FBI và phản gián quân đội
Hoa Kỳ đặc biệt theo dõi..
Ông Kissinger không ưa
người ta chỉ trích ông ta. Năm 1961, một phụ
tá của ông ta, Helmut Sonnenfeldt có trình
cho ông ta một bản
báo cáo - được ông ta hoàn toàn đồng
ý - cho rằng
không bao giờ Liên Xô có ý định đặt hỏa
tiễn
tại Cuba. Nhưng chỉ vài tháng sau
thôi là Mạc
Tư Khoa ngang nhiên cho đặt hỏa tiễn ngay trên đảo
nầy.
Mạng
Lưới ODRA
Trong những
năm từ 1960 đến 1975, sau khi tên gián điệp người
Ba Lan Michael Goleniewski đi tìm “tự do” vào
tháng giêng, năm
1961, thì cơ quan phản gián Hoa Kỳ được điệp
viên nầy cho biết nhiều tin khá quan trọng. Goleniewski,
người gốc Ba Lan, sĩ quan cao cấp
trong cơ quan điều hợp ngành tình báo vệ tinh của
Liên Xô. Theo y, thì từ 1939 đến 1945, một số
nhân
viên cao cấp trong ngành tình báo của Đức
Quớc Xã đều
là gián điệp của Liên Bang Xô Viết như
Heinrich
Muller, trùm mật vụ Gestapo của Đức Quốc Xã
từ 1937 đến 1945. Goleniewski từng phát hiện ra mạng
lưới ODRA (tiếng Đức là
Mạng
lưới nầy chuyên xâm nhập các cơ quan tình
báo của
quân đội đồng minh có căn cứ đặt tại
Đức., để rồi từ đó
xâm nhập vào tổ chức của Minh Ước Bắc Đại
Tây Dương (OTAN) và những căn cứ của tổ
chức nầy tại Anh quốc và Hoa Kỳ.
Một trong những tên gián điệp
được Goleniewski kể ra trong bản tường
trình về hoạt động của anh ta từ 1961 đến
1964 có đề cập đến Bosenhard tức “BAR”. Trong
bản tường trình, Goleniewski cũng có kê
tên “BOR” nhưng không biết tên thật và nghề
nghiệp
của anh ta làm gì. “BAR” sau đó vào
tù 8 năm nhưng
sau đó được giảm xuống chỉ còn 4 năm
thôi, và được phóng thích vào năm
1955. Còn “BOR” thì hoạn
lộ lên tận mây xanh...
Theo phân tích gia Capell
thì Kissinger có thể là gián điệp của
Liên Xô. Nhưng với một con
người khôn ngoan, xảo
quyệt, lý tài như ông Kissinger, thì
ông ta chỉ có thể làm
gián điệp cho chính ông ta thôi; vì
chỉ trong vai trò đó,
ông ta mới có thể phục vụ quyền lợi thiết
thực của ông ta mà thôi.
Vào tháng 8, 1997, phân
tích gia Antony Sutton viết trong “The Phoenix Letter” rằng
ông
Henry Kissinger là “gián điệp của Trung Hoa.”
Cũng nên ghi nhận rằng Antony Sutton là một
sử gia có tên tuổi, từng làm việc cho viện khảo
cứu
Mối
liên quan bí mật với Hà
Nội và Bắc Kinh
Mối liên quan thứ nhất của Kissinger đi
qua cặp Claude Dulong và Jean Roger. Cặp
nầy
sau thành vợ chồng. Jean Roger - về sau lấy tên
là Jean Sainteny - trước kia là học trò của
Kissinger
trong các nhóm “nghiên cứu chuyên đề”
(seminar) tại đại
học Harvard, để rồi từ đó ông ta lưu ý đến
những tên học trò có khả năng chính trị
có thể
giúp ông ta trong ngành ngoại giao quốc tế như
trường
hợp của Sainteny chẳng hạn, được tướng
Charles de Gaulle cử đi thương thuyết với Hồ
Chí Minh, mặc dầu cuộc thương thuyết chả
đi tới đâu cả, nhưng đối với
Kissinger, biết đâu Sainteny chẳng là một con thoi hữu
ích về sau nầy, nhất là khi ông ta muốn có
một cuộc
tiếp xúc kín đáo với Hà Nội.
Ông
Kissinger lại còn có liên hệ bí mật với
nhóm Pugwash: một
tổ chức khoa học chuộng hòa bình, được
tỷ phú Gia Nã Đại Cyrus Eaton tài trợ vì
ông nầy ủng
hộ Khrouchtchev một cách mù quáng, ông ta cứ
tưởng
rằng một khi các nhà bác học chia sẻ với nhau
những
tiến triển vềvõ khí nguyên tử thì sẽ
không còn cạnh
tranh lẫn nhau nữa. Trong nhóm nầy, có sự hiện diện
của một số khoa học gia có tên tuổi như
Herbert Marcovitch, Étienne Bauer cùng một số khoa học
gia cấp
tiến chống cuộc chiến tranh chống lại miền
Bắc Việt Nam do một cặp vợ chồng người
Pháp, rất thân với Hồ Chí Minh cầm đầu, tên
là Lucie và Raymond Aubrac. Cặp vợ chồng nầy hoạt
động cho cơ quan tình báo Komintern của Đệ Tam
Quốc Tế mà giờ đây mọi người đều
biết rõ mặt thật của họ là tay
sai cho cộng sản. Mỗi lần Hồ Chí Minh qua Pháp là
ở trong nhà của cặp bài trùng cộng sản nầy,
tại Soisy-sous-Montmorency, vùng Ile-de-France, vào năm
1945, lúc chính
quyền Pháp dự tính mở cuộc thương thuyết
với Hà Nội. tại thủ đô
Vào năm 1991, Mạc Tư Khoa mở
hạn chế cơ quan lưu trữ văn thư của
họ thì người ta mới vỡ nhẽ ra là kể từ
1967 và 1968, Kissinger đã có liên lạc ngầm
với Hà Nội
rồi, qua trung gian Lê Đức Thọ mà chính quyền Miền
Nam Việt Nam chả hay biết gì hết. Và như thế
cho đến năm 1971
mới trở thành công khai, và
mặc nhiên mở
cửa Miền Nam Việt
Kissinger khi nào cũng chủ trương
xoa dịu tình hình để đem lợi điểm về
cho ông ta và rất thiện nghệ trong việc dùng một
viên sỏi để bắn luôn một lần hai con chim.
Nhờ biết được ở Miền Bắc, Việt
cộng có hai phe cộng sản kình chống lẫn nhau vì
phe thì thân Bắc Kinh, còn phe kia thì chạy
theo Mạc Tư
Khoa, nên ông ta đã lợi dụng sự chia rẽ nầy để
đi đêm với Mao Trạch Đông vào năm 1977, để
rồi đi đến chỗ bắt tay chính thức giữa
Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh.
Chủ trương
của Kissinger là không nên gây mối bất
hòa với bất
cứ ai. Và nên làm mọi cách để cho
bên địch
biết là ta luôn luôn chủ trương bắt tay với họ và cho họ biết là ta chủ
trương hòa giải thay vì đương đầu. Vấn
đề chính là phải biết cách thu xếp; dù cho
có phải
thu xếp ngay trên lưng của quần chúng như trong trường
hợp của Việt Nam từ 1967 đến 1975 hay những
vấn đề đương đầu khác đối
với Liên Xô hoặc Trung Cộng.
Chính Kissinger là người đích
thân đứng
ra thương thuyết với Liên Xô về thỏa ước
SALT-1, gài Liên Xô vào con đường tài
giảm binh bị Đông-Tây.
Vào giai đoạn quyết liệt nhất của
cuộc thương thuyết, Kissinger đã dành điều
đình một mình, không cho chuyên viên
và nhân chứng Hoa Kỳ
tham dự; mặc dầu ông ta chả biết gì về võ
khí cả. Vì ông ta được sự tin cậy tuyệt
đối của tông thống, nên không có ai lên
tiếng phản
đối cả.
Trong suốt thời gian đàm phán
để đi đến việc ký kết thỏa ước
SALT-I, Leonid Brejnev ra lệnh khi nào cũng phải có
bên cạnh
ông ta ông tướng Nikolai Ogarkov, người từng điều
khiển nhiều năm qua ngành phao tin sai về quân sự.
Chính viên tướng nầy là người đã từng khẳng
định với Tây Phương là quân đội Liên Xô
sẽ
không can thiệp vào cuộc nổi loạn ở thủ đô
Prague, Tiệp Khắc. Gián điệp Souvorov trong cơ quan
tình báo GRU của Liên Xô đi tìm tự do
có cho biết trong
khi Liên Xô thương thuyết tài giảm binh bị với
Hoa Kỳ, thì Liên Xô vẫn tiến hành việc chế
tạo
hỏa tiễn tấn công UR- 100, mà những điểm đặc
thù về tấn công là đã vi phạm ngay từ đầu
thỏa ước SALT-I rồi.
Kissinger
được các phân
tích gia Mác Xít khen ngợi
Anatoli
Dobrynine đãtừng nói công khai vào năm 1973
về cuộc
xung đột Do Thái - Ả Rập và thái độ của
Kissinger trong cuộc xung đột nầy: “Không cần phải
có hai người mới thảo
luận được vì chỉ một mình Kissinger cũng
đủ nói thay cho chúng ta rồi” Một phân
tích gia Mác
Xít khác, ông Gérard Chaliand, vào
năm 1975 trong tạp chi “Partisan”
đã khen Kissinger như sau: “Cái
nhìn của ông (Kissinger) về thế giới không phải
là
cái nhìn của một người Hoa Kỳ, mà đó
là cái
nhìn của một sử gia.”
Theo
sử
gia Chaliand,chủ trương của ông
Kissinger là muốn thay thế cái ám ảnh chủ trương
chống cộng cố hữu của Hoa Kỳ đã từng
làm tê liệt nước nầy bằng cách chấp nhận
cho người đại biểu rộng quyền hoạt
động. Theo ông ta thì đối với
Kissinger, quyền lợi của Hoa Kỳ thuộc cỡ hành
tinh, trong khi đó quyền lợi của Nga thuộc vào loại
quyền lợi của một vùng. Rồi ông Chaliand kết
luận vì vậy một thế giới trong tình trạng
“tam cực tính” bao gồm cả Trung Hoa rất là nguy hiểm
cho hòa bình của nhân loại; còn một thế giới
lưỡng
cực, bắt tay với Nga thôi sẽ có thể đem lại
cho thế giói một vận hội mới an bình. Ông
Chaliand bênh vực cho ông Kissinger là như vậy;
nhưng nếu
ta theo dõi những khảo cứu của ông Antony Sutton
(tháng
10, 1972 trước đại hội của đảng Cộng
Hòa) thì trong thập niên 1970, đường lối
chính trị
của ông Kissinger đã chấp nhận cho phe Liên Xô
dùng 96 tàu
chở hàng hóa của Liên Xô đóng tại
Âu Châu để
chở liên tục trong mấy năm liền, một số
lượng vũ khí khổng lồ viện trợ cho Hà Nội
để xâm chiếm Miền Nam Việt Nam. Tưởng
cũng nên lưu ý bạn đọc là ông Kissinger
đã làm
ngơ cho các nhà sản xuất máy tính điện tử
tối
tân nhất (bị cấm xuất cảng) bán lậu qua Liên
Xô để được xử dụng trong các nhà máy sản
xuất vũ khí của Liên Xô. Những xe vận tải
cỡ bự nhất của Liên Xô do nhà máy Kama của
Liên Xô
sản xuất đều do kỹ thuật và phát minh chấp
chiếu của các công ty Hoa Kỳ, theo nhịp độ sản
xuất 100 000 chiếc xe mỗi năm.
Khoảng
bốn chục ngân hàng và thương cục Hoa Kỳ ký
kết
rất nhiều thương ước với Liên Xô từ
1971 đến 1980, phần lớn là về vũ khí và về
kỹ thuật cao. Mặc dầu có sự tiếp tay của
Hoa Kỳ qua ông Kissinger, Liên Bang Xô Viết vẫn bị
sụp
đổ vào năm 1989; nhưng dấu hiệu suy sụp
thì đã phát hiện bảy tám năm về trước.
Trong khoảng mười năm,
từ 1964 đến 1974, có rất nhiều chuyên gia Hoa Kỳ
tuyên bố công khai là ông Kissinger phục vụ
đường
lối chính trị của Liên Xô, nhưng ông
làm ngơ không
trả lời.
Ngày 14 tháng 8 1975, trong một cuộc
họp báo ở
- Tôi nghĩ rằng người ta
nên tặng cho Goleniewski giải thưởng Pulitzer về truyện
giả tưởng!
Những
vị Cố Vấn lạ
thường
Từ
1948 đến 6 tháng 3 1959, Henry Kissinger được đê
nghị thăng thiếu úy khi có lệnh giải ngũ, nhưng
phải tham dự một khóa huấn luyện 90 ngày tại
một số trung tâm huấn luyện quân sự ở
Maryland, để sau nầy có thể lên cấp bậc
trong ngành trừ bị đến cấp đại úy là cùng.
Đến năm 1956, Kissinger được
giới thiệu vào Hội Đồng Đối Ngoại
(CFR - Council on Foreign Relations) để rồi sau nầy trở
thành thư ký thường trực của cơ quan nầy,
đặc trách nghiên cứu và sưu tầm về những
vấn đề liên quan đến chiến lược và
nguyên tử, để rồi từ 1961 trở đi ông ta
trở thành cố vấn đặc biệt của tổng
thống Kennedy lúc xảy ra cuộc khủng hoảng Bá
Linh. Rồi anh em dòng họ Rockfeller lại tiến cử ông
ta vào các nhóm chính trị quốc tế như
Bilderberg,
Rồi người
ta đặt câu hỏi thế thì ông Kissinger làm việc
cho
ai? Phải chăng là cho ông
Kissinger?
Như
với HELMUT SONNENFELDT được ông Kissinger giới thiệu
vào phụ trách ngành thương mại với các nước
Đông Âu trong bộ Ngoại Giao, để rồi sau đó
vào ngay Cơ Quan An Ninh Quốc Gia
của
chính quyền Richard Nixon đầu tiên. Nhìn vào
quá khứ của
Sonnenfeldt, thì thấy ông ta là người từng
nâng đỡ
nữ điệp viên Liên Xô Judith Coplon!
Rồi đến William O. Hall mà
một số dân biểu trong quốc hội đã cho ông
Kissinger hay là người nầy có nhiều liên hệ khả
nghi với một số điệp viên của Liên Bang Xô
Viết như Harold Glasser, Alger Hiss, V. Franck Coe. Nhưng mãi
cho đến 1972, thì Hall mới bị cô lập do sự tố
cáo của một số dân biểu và nghị sĩ trong lưững
viện quốc hội.
Cũng như James S. Sutterlin,
ngưừi thay thế Hall trong bộ Ngoại Giao bị
dính líu đến nhiều vụ tai tiếng về thuần
phong mỹ tục ở Đức quốc. Chính quý ông
Kissinger, Sonnenfeldt, Sutterlin là những vị đã thảo
ra, vào năm 1971, thỏa hiệp Bá Linh chia nước Đức
ra làm hai nước Tây Đức và Đông Đức,
và
chấp nhận cho Đông Đức vào Liên Hiệp Quốc.
Cũng chính Henri Kissinger là người
đã đưa Boris Klosson vào trong ban thảo luận thỏa
ước Salt-I.Vào năm 1961, chính Klosson là người
đã
vận động cho Lee Harvey Oswald tự ý đi qua Liên Xô
mà không được sự đồng ý của chính quyền
Hoa Kỳ. Ông nầy là chồng của Marina, con gái của
một sĩ quan tình báo của Liên Xô, và
đã trở về
lại Hoa Kỳ mà không bị đưa ra tòa án
xét xử,
mặc dầu có một nhân viên trong tòa Tổng
Lãnh Sự
Hoa Kỳ ở Mạc Tư Khoa đã có nêu vấn đề
vi phạm trắng trợn nầy nhưng vẫn được
thượng cấp làm ngơ.
Khi David Popper được
Kissinger phong cho làm đại sứ ở Chí Lợi (Chili)
là
do điệp viên Alger Hiss giới thiệu y vào bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ. Henry Kissinger còn có một người em trai:
Walter B. Kissinger, sinh năm 1924, tốt nghiệp tại đại
học Princeton năm 1951, rồi đại học Harvard năm
1953, đi theo ngành Quốc Tế Sự Vụ như làm cố
vấn cho các công ty có tiếng tăm như General Tire
and
Rubber, Vaccum Products v.v...
chuyên giao thương với LIên
Bang Xô
Viết, để rồi sau đó Walter trở thành một
trong những vị giám đốc của công ty Allen Electric
Equipment đã từng xây cho Liên Xô 500
nhà bán xe hơi mặc
dầu không được giấy phép của bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳø.
So với ông anh Henry
Kissinger, Walter Kissinger ít được người ta nhắc
đến. Trừ phi trong năm 1976, khi ông chưởng
lý thị xã San Francisco đưa 7 người buôn vật
liệu chiến lược bất hợp pháp với Liên
Bang Xô Viết ra tòa thì có dính
líu đến công ty của
Walter Kissinger, nhưng sau đó được thu xếp rồi
cũng yên.
Công
Ty Kissinger Associates
Trong
thời
gian cầm bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Henry Kissinger đã
nhân dịp đó kết bạn trên khắp hoàn cầu, rồi
đến khi ông rút lui ra khỏi ngành ngoại giao
thì ông lại
là một trong những người quản lý tài sản của
gia đình Rockefeller. Có khi
ông ta kiêm nhiệm đến
13 chức vụ khác nhau trong một số ngân hàng
chuyên về
đầu tư như ngân hàng Goldman Sachs. Thế rồi
qua năm 1982, ông Kissinger mở một công ty tư vấn
“Kissinger Associates” qui tụ một số khá đông nhân
vật
có tên tuổi như Brent Scowcroft (CFR - Hội Đồng Đối
Ngoại) người thay ông ta trong chức vụ giám đốc
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ; Lord Carrington,
bộ trưởng trong nội các của bà Margaret Thatcher,
thành viên của Hội Đồng Tay Ba (Trilaterale);
ôngRobert
O. Anderson, giám đốc công ty Arco, sáng lập
viên viện
Aspen, thành viên của Hội Đồng Đối Ngoại;
ông Pehr Gyllenhammar, thành viên của Hội Đồng Tay
Ba,
giám đốc công ty xe hơi Volvo; William Rogers thứ trưởng
bộ Ngoại Giao đặc trách vềkinh tế, thành viên
của Hội Đồng Đối Ngoại v.v...
Ông ta thường được
các chính khách trên thế giới coi như một cố
vấn
trong bóng tối: như khi ông G.P. Shultz (Hội Đồng Đối
Ngoại), lúc vừa được mời giữ bộ
Ngoại Giao vào năm 1982, là lập tức gọi điện
thoại cho Kissinger để hỏi ý kiến ngay; Helmut
Schmidt khi vừa nhận chức thủ tướng chính phủ
Tây Đức; Lý Quang Diệu thủ tướng Singapour,
Edward Heath sau khi thôi làm thủ tướng ra mở một
công ty tư vấn cũng hỏi ý kiến của ông ta.
Có một lần nói chuyện với
ông Leslie Gelb, ông Kissinger có thốt ra một
câu đặc biệt,
nghe để “để đời”: “Nếu anh không ý thức được
giữa kinh
tế và chính trị có sự liên quan chặt chẽ,
thì anh
không thể trở thành một ø chính trị gia
được”.
Đi theo bóng của sáu vị tổng
thống Hoa Kỳ, của bang hội cộng sản ở
Bắc Kinh khi họ thay thế Mao Trạch Đông sau 1976,
rồi của Brejnev ở Mạc Tư Khoa khi ông nầy
thay thế Khroutchev, Henry Kissinger là một loại quốc
gia trong quốc gia Hoa Kỳ.
Ngày
24 tháng
5 2001, trong những trang dành riêng về kinh tế,
báo
International Herald Tribune có đăng tên 3 công ty
quốc tế
có ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới về
kinh tế và chính trị, đó là:
- Nhóm Cohen do William Cohen
sáng lập. Ông
nầy là nghị sĩ thuộc đảng Cộng Hòa thuộc
tiểu bang Maine cho đến năm 1979, rồi qua làm bộ
trưởng bộ Quốc Phòng trong chính quyền Clinton.
- Nhóm Carlyle, của Franck
Carlucci (nguyên
phó giám đốc cơ quan CIA, bộ trưởng Quốc
Phòng từ 1987 đến 1989; cựu chánh văn phòng của
tổng thống Reagan và H. Bush, nguyên bộ trưởng bộ
Ngân Khố và bộ Thương Mãi từ 1989 đến
1993. Thành viên của Hội Đồng Đối
Ngoại và của Hội Nghị Tay Ba.
- Nhóm Kissinger Associates
đã từng
đề cập trên đây là một tổ chức có ảnh
hưởng khắp nơi trên thế giới.