CUộC CHIẾN TẾT MậU THÂN
DƯỚI
NHÃN
QUANG CỦA MộT CỰU CHIẾN BINH HOA KỲ
LTS.- Bill Bell là một cán sự bậc GM-14 (tức cấp
Tá) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Ông Bell qua Việt Nam năm 1965 là lính trinh
sát.
Sau khi chuyển qua ngành Tình Báo tại
Sài Gòn,
ông Bell được chuyển qua làm Trưởng Phòng
Liên
Lạc Phái Đoàn Hoa Kỳ trong Ban Liên Hợp
Quân Sự
Bốn Bên. Ông Bell mất người vợ và đứa con trai
trong chiếc máy bay C-5A bị rơi tại Gò Vấp. Sau
khi hồi huơng di hài vợ con ông xong, ông quay
trở lại Việt Nam và ra Hà Nội ngày 25
tháng 4 để
nhận điều kiện di tản Sài Gòn. Ông Bell rời
Việt
Nam bằng trực thăng vào ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Dưới thời kỳ chính quyền Tổng Thống Bush, ông
Bell được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Liên Lạc
của
Hoa Kỳ tại Hà Nội. Hiện nay ông Bell làm
điều tra
hình sự tại Khu Tư Pháp 12, tiểu bang Arkansas.
Dưới đây là nguyên văn bài viết bằng
tiếng Việt
của Ông Bill Bell
Mỗi năm, Tết Nguyên Đán sắp đến tôi
lúc nào cũng nhớ đến
một người lính Biệt Kích Dù Mỹ đã
góp phần quan trọng trong
cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của Việt Cộng năm
1968. Hồi
còn thanh niên, tôi có hai lần
làm việc dưới quyền Đại Tá
Charlie Beckwith, và thấy rằng Đại Tá là
loại người chỉ huy
mình không bao giờ quên được. Đại Tá
Beckwith làm việc rất
sốt sắng nên anh em
trong đơn vị hay gọi tên của Đại Tá là
"Chargin' Charlie," tức "Charlie lao vào."
Đại Tá rất được
nổi tiếng trong quân đội vì trong chiến dịch Plei
Me năm
1965 Đại Tá đi quan sát trên một chiếc trực
thăng nhỏ bị
trúng một viên đạn súng cao xạ 12,7 ngay ở
giữa bụng của
mình. Mặc dù mổ bụng mất một nửa lá
lách, Đại Tá vẫn tiếp
tục chiến đấu tại Việt Nam lâu năm. Song đối với
nhân dân
Mỹ họ chỉ bắt đầu biết Đại Tá vài năm sau khi
chiến tranh
Việt Nam kết thúc và lúc Đại Tá chỉ
huy vụ đột kích của
lực luợng "Denta" vào Iran để cứu thoát 52 con tin
Mỹ bị
chính quyền Ayatollah Khomeini giam giữ.
Còn đối với chiến tranh Việt Nam, sau một năm lãnh
đạo
"Chương Trình Denta", tức chương trình trinh
sát
chiến lược
tại vùng Cao Nguyên Trung Phần, Đại Tá nhận
được lệnh chuyển
về làm Phòng Nhì Sư Đoàn 101
Dù đóng tại trại Fort Campbell,
tiểu bang Kentucky. Lúc đó tôi cũng ở
vùng Cao Nguyên mới
về và được nhập vào tiểu đoàn 2/506
Dù của sư đoàn. Tôi nghĩ
rằng vào lúc ấy Đại Tá đã biết trước
là cả sư đoàn sắp sửa
qua Việt Nam chiến đấu, bởi vì trong sư đoàn thiếu
người nói
được tiếng Việt và Đại Tá đã phối hợp với
phòng 1, nhờ họ
chuyển tôi từ tiểu đoàn Dù qua Biệt đội
Quân báo làm ở dưới
quyền của Đại Tá. Kể từ năm 1965 sư đoàn chỉ
có một Lữ đoàn
đóng tại Việt Nam, là Lữ đoàn 1 tại Phan
Rang, nhưng vào mùa
Thu năm 1967 cấp trên đã ra lệnh cho cả sư
đoàn ra chiến
trường. Vậy thì sư đoàn được chuyển qua một căn cứ
khác ven
sân bay Biên Hòa và gần bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn III của Việt
Nam Cộng Hòa, là một căn cứ cũ của Lữ đoàn
173 Dù. Lúc bây
giờ Biên Hòa là một thị xã tương đối
nhỏ, nằm ven bờ đông
sông Đồng Nai. Tuy rằng tỉnh Biên Hòa
đã khai hoang và có
nhiều đồn điền cao su thời Pháp thuộc, phần nhiều đất đai
nằm về phía bắc của tỉnh vẫn là rừng lá, ba
lớp phủ kín
trong một khu vực địa phương gọi là "Chiến Khu D."
Cây cối
xanh tươi này rất thuận tiện cho sự ẩn náu
và tập trung các
đơn vị chính quy của miền Bắc xâm nhập vào
Nam qua đường mòn
Hồ Chí Minh.
Ngay sau khi đến Biên Hòa, Đại Tá Beckwith
đã cho tập
họp tất cả anh em có nhiệm vụ trinh sát hoặc sưu
tập tình
báo. Sau khi triệu tập tất cả anh em trong một nhà
lều
"GP"
của phòng tác chiến Đại Tá tung vào
cái nắp vải. Vì Đại Tá
là Biệt Kích Dù nên không quan
tâm họp mít tinh nhiều và
cũng ít khi dùng chữ "tình báo". Đại
tá nói to lên
với chúng
tôi một cách ngay thẳng : "Anh em phải chui rừng
và bắt
cho
tôi một số tù binh cùng tài liệu,
mang về đây cho tôi càng
sớm càng tốt ! Đù Mẹ, nếu mình không
biết vị trí của chúng,
thì làm sao diệt chúng nó được !"
Sau khi bắt tay, nói
chuyện với một số anh em quen biết ngày xưa, Đại
Tá biến mất
trở lui qua nắp lều bụi bám.
Hầu hết những người làm việc dưới quyền Đại Tá
trong
quá khứ kính trọng Đại tá nhiều, song cũng
có một số người
phê bình Đại tá trong thời gian ông
chỉ huy "Denta."
Hồi đó
Đại tá tiếp tục bổ sung thêm viện binh để cố gắng
cứu một
đội Biệt Kích Dù Mỹ bị sư đoàn 3 Bắc Việt
phục kích tại
thung lũng An Lão, Bình Định, gây ra tổn
thất rất nặng. Theo
ý kiến họ, anh em bị thiệt hại nhiều vì Đại
tá vị kỷ, sợ
mang tiếng mất lính. Nhưng thật ra, ý kiến của Đại
tá là
đúng theo quy luật, bắt đầu từ lúc mất
lính, người chỉ huy
của họ phải chịu trách nhiệm thêm 72 tiếng đồng hồ
để cứu
vớt họ. Qua 72 tiếng đồng hồ là trách nhiệm được
chuyển cho
Trung Tâm Hỗn Hợp Cứu Vớt Nhân Viên (JPRC),
là một đơn vị bí
mật của Cục Điều Hành Đặc Biệt (SOG).
Sau "cuộc họp mít tinh" của Đại tá với anh em,
tất cả
các đơn vị quân báo sẵn sàng hoạt
động để thu lượm tin tức,
đặc biệt là những đội trinh sát. Các anh em
y tá cung cấp
cho anh em uống thuốc "trắng-xanh" để bảo đảm nhân
thức,
không cho ngủ để các đội hoạt động cả ngày
đêm 24/24.
Quan điểm của Đại tá là một đội trinh sát
chuyên nghiệp
chui rừng có giá trị hơn 100 điệp viên ngồi
trong Tòa Đại
Sứ Mỹ ở Saigon. Có một lần Đại Tá tiết lộ với
tôi là nếu
cấp trên đồng ý, trong tương lai Đại Tá sẽ
bố trí những đội
trinh sát chỉ có một người đi.
Những
nỗ lực trinh
sát bắt đầu có hiệu quả rất nhanh và
nhiều tài liệu bí mật đến tận tay Đại Tá.
Ví dụ trong những
tài liệu ấy có bản kế hoạch và sơ đồ của
một vị thiếu tá
pháo binh của bộ đội chủ lực, là chỉ huy Trung
đoàn Pháo
DKB. Theo tài liệu
này,
bộ đội Pháo binh đã lập kế hoạch bắn
hỏa tiễn 122mm nửa đêm khuya vào bãi đậu
máy bay trong sân
bay Biên Hòa. Trong lúc phân
tích tài liệu trước hết chúng
tôi xác định vị trí đặt hỏa tiễn và
đảo ngược góc phương vị
ghi trên sơ đồ 180 độ.
Tối hôm đó một máy bay ném bom của
chúng tôi báo cáo về là
lúc ném bom tại địa điểm đặt hỏa
tiễn 122mm ghi trên tài liệu chúng tôi
bắt được, họ đã thấy
nhiều tiếng nổ phụ.
Một tài liệu quan trọng khác được Việt Cộng
phân loại
là "Tối Mật", và tài liệu này
có ghi tất cả địa danh
và tiện
nghi chủ yếu của Cộng Sản cũng như các bí hiệu
cung thoi
trong vùng hoạt động của sư đoàn Dù.
Lúc mà tôi thấy tài
liệu đánh máy chữ này là loại "giấy
vỏ hành" để cho
nhân
viên giao liên dễ nuốt miệng, tôi tin chắc
rằng tài liệu này
phải quan trọng lắm. Đại tá Beckwith bảo tôi mang
tài liệu
tới cơ quan nghe đài đối phương (tức Cục 265 của cơ quan
An
Ninh Quốc Gia) để phân tích ra mật mã trong
tài liệu. Anh em
nghe đài đối phương mừng lắm vì trước đó họ
rất khó mà theo
rõi các đài truyền tin của địch. Qua
tài liệu mới này họ có
thể xác định dễ dàng tất cả những kế hoạch
và truyền tin
liên lạc bí mật của đối phương, rất ích lợi
cho Phòng
Tác Chiến của sư đoàn. Điều không may
là vài ngày sau khi
bắt được tài liệu, một anh sĩ quan báo chí
trẻ trên Bộ Tham
Mưu đã đăng bài báo trong báo thời
sự sư đoàn xuất bản hàng
tháng là "sư đoàn có bắt được
tài liệu tối mật của địch,
ghi
rõ tất cã mật mã, bí hiệu trong
vùng." Lẽ ra báo này sẽ
phổ
biến cả Biên Hòa và khu vực lân cận,
nên thế nào địch cũng
sẽ đổi hết mật mã của chúng ! Đại tá biết
tin này, rất tức
giận, ra lệnh là lần sau Phòng Báo
Chí phải phối hợp với
Phòng Nhì trước khi đề cập đến bất cứ vấn đề
nào liên quan
đến đối phương.
Cũng trong thời gian này, anh em trong đơn vị trực
thăng sư đoàn phát hiện một phụ nữ người Việt đi
qua sân để
máy bay của họ, và theo ý của họ, phụ nữ ấy
"có hành động
nghi ngờ", tức là theo ý họ bà này
đang đi bộ như bà đang
đo
lường phạm vi, diện tích của nơi đậu máy bay. Theo
anh em
trong đơn vị có thể bà này được họ
thuê để làm "bồi
phòng".
Sau khi chúng tôi cứu
xét hồ sơ tại văn phòng lao động thì
được biết bà ta là một nhân viên "bồi
phòng" thật,
nhưng
điều không may cho bà ta là bà
có mang theo một mảnh giấy
nhỏ của nhà bếp dính mỡ heo. Lúc xem mảnh
giấy ấy, chúng tôi
rất ngạc nhiên vì thật ra đây là một
sơ đồ ghi rõ tình hình
tại sân đậu trực thăng với đầy đủ chi tiết, sẽ rất lợi cho
đơn vị Việt Cộng nào có súng cối,
pháo binh, hoặc hỏa tiễn
122mm. Một anh sửa chữa máy bay trực thăng trong đơn vị
cũng
giao nộp cho
chúng tôi
một quả lựu đan M-26 trong một bao
tay và quả lựu đạn ấy đã có trục nhỏ
rút ra rồi và có thể nổ
bất cứ lúc nào. Đầu tiên bà bảo
là không biết gì về quả lựu
đạn và cũng không biết gì về sơ đồ. Nhưng
sau khi bà bị đưa
qua máy thăm dò sự thật (Polygraph) khoảng nửa
tiếng đồng hồ
và thấy là không chối cãi được nữa
nên bà bắt đầu nói sự
thật. Theo bà nói, bà có ông
chồng "theo cách mạng"
kể từ
năm 1954 và ông chồng tập kết ra Bắc. Sau
này bà lấy thêm
hai ông chồng, cả hai
là sĩ quan cấp tá của Việt Nam Cộng
Hòa. Do những hoạt động bí mật của bà, cả
hai chồng sau đều
chết, cũng như nhiều lính trong đơn vị của họ bị Việt Cộng
phục kích. Chúng tôi có hỏi
làm sao bà có thể đi tự do trong
sân máy bay đậu, bà trả lời là
đúng theo chỉ thị của cấp
trên, bà đã "dần dần làm quen" với vị
chỉ huy đơn vị
trực
thăng. Sau khi lên giường làm cho ông chỉ huy
sung sướng vài
lần, thì bà đi đâu trong sân bay cũng
được. Sau khi báo cáo
gởi về cho Đại tá thì ông ta cho biết sẽ
giải quyết tình hình
tồi tệ này, nhưng không cho biết chi tiết. Tuy
nhiên, chúng
tôi biết trước là Đại tá xem an ninh như
là một yếu tố hết
sức quan trọng, nên chúng tôi biết thế
nào vị chỉ huy đơn vị
trực thăng cũng sẽ rất hối hận về "chuyện tình" của
ông.
Trong khi Tết Nguyên Đán đến, chúng
tôi bắt đầu nhận
được các tin đồn về một cuộc tấn công trong
vùng hoạt động
của sư đoàn nhưng không được chi tiết lắm.
Vào ngày mồng ba
tháng giêng năm 1968, chúng tôi nhận
được thêm một tài liệu
quan trọng qua nỗ lực của một đơn vị trinh sát khi mở một
cuộc phục kích tại huyện Tân Uyên, về
phía bắc tỉnh Biên
Hòa, được Việt Cộng đặt bí hiệu là "U-1".
Tài liệu
này được
phát hiện trong xác của một vị thiếu tá
Việt Cộng mang tên
là "Út Hiệp" chết trong trận phục kích.
Theo chúng
tôi được
biết, thiếu tá Út Hiệp là chỉ huy của tiểu
đoàn Đồng Nai,
tức là tiểu đoàn trinh sát của "Trung Ương
Cục Miền Nam"
tức
"Cục R". Trung Ương Cục Miền Nam là văn phòng tiền
phương
của Bộ Chính Trị tại Hà Nội và duy
trì quyền hành về cả
chính trị lẫn quân sự từ vùng Cam Ranh đến
mũi Cà Mâu. Vùng
họat động tương đối lớn này được Việt Cộng đặt bí
hiệu là
"B-2". Theo tài liệu này, thiếu tá
Út Hiệp đi họp
tại "R"
mới về và đã nhận nhiệm vụ trinh sát
"sân bay B.H. và xã
Bình Mỹ" từ ngày mồng 7 đến 14 tháng
giêng năm 1968.
Theo chỉ thị của "R", anh Út Hiệp phải về
"R" trình
bày tình hình cho cấp trên
không trễ hơn ngày 19 tháng
giêng. Tuy rằng tài liệu viết bằng tay và lờ
mờ, sau khi tôi
đọc được tôi trình bày với Đại Tá
là đối phương sắp mở một
cuộc hành quân đại quy mô trong vùng
của sư đoàn. Tôi cũng
cho biết ý kiến là sân bay B.H. có
nghĩa là sân bay Biên Hòa
và xã Bình Mỹ đúng là
xã nhỏ giáp sân bay về phía bắc, tất
là một vị trí Việt Cộng có thể đặt
súng cối để hạn chế máy
bay không được cất cánh để yểm trợ các đơn
vị bộ binh của sư
đoàn. Qua hai tuần lễ
không nghe gì về ý kiến của mình, song
Phòng Nhì cho biết là các
"chuyên gia" tại Trung Tâm
KhaiThác
Tài Liệu Sài Gòn không đồng ý
với tôi. Đại Tá có bảo tôi
xuống bàn luận với các "chuyên gia"
này, nhưng sau
khi đến
trung tâm tôi mới được biết là các
nhân viên Mỹ không có ý
kiến, họ đã nhường lại cho một cán sự người Việt
Nam làm cho
Trung Tâm. Tôi không còn nhớ tên
của ông này mà chỉ nhớ là
ông tưởng sân bay B.H. là một sân bay
khác. Điều lạ đối với
tôi là ông không chịu nói
rõ là nếu B.H. không phải Biên Hòa
thì là phải tương quan với địa danh nào
khác ? Tôi về Biên
Hòa cảm thấy giận và thất vọng vì
không thể nào thuyết phục
họ được. Vài ngày sau một số nhân viên
của Phòng Nhì qua gặp
tôi tại Biệt Đội Quân Báo. Họ có đem
theo đầy đủ bản đồ và
tài liệu của họ để nắm lại tình hình trong
vùng. Sau khi
nhận xét tất cả phương án, họ về báo
cáo cho Đại Tá, rồi Đại
Tá kéo tôi qua. Tôi nói thẳng
là theo tôi lực lượng phòng
thủ căn cứ sư đoàn rất kém vì đa số những
đơn vị tác chiến
đang đi rừng tại các vùng Mã Đá, La
Ngà, Sông Bé. Sau khi
suy nghĩ lại rất kỷ lưỡng, Đại Tá đồng ý và
lên gặp vị tướng
tư lệnh sư đoàn.
Ngày trước Tết Nguyên Đán, Đại Tá gọi
điện thoại cho
tôi, rồi cử tôi lên tỉnh Bình Dương -
nằm về phía bắc tỉnh
Biên Hòa - để lấy cung một người lính của bộ
đội chính quy
của Việt Cộng vừa mới ra chiêu hồi. Thật ra lính
hồi chánh
đó đang bị bệnh sốt rét rừng và sức khỏe
rất yếu. Anh cho
biết là bởi vì anh mới đi theo Việt Cộng
vài ngày nên không
biết gì nhiều. Sau khi tôi xác định
là trong ngữ vựng anh ta
dùng hay đổi lại chữ "L" và chữ "N" nên
điều rõ ràng là anh
ta không phải "Việt Cộng" địa phương như anh đã
khai. Theo
cách nói của anh ta thì anh ta thuộc về bộ
đội chủ lực sinh
ra tại vùng từ Thái Bình tới Hải
Phòng, vì đối với dân ở
những nơi đó Hà Nội thành ra "Hà
Lội", nước Lào
thành "Nước
Nào", v..v... Tôi cũng nghi ngờ anh ta không
phải là đào
ngũ
thật, anh ta đào ngũ vì đang đau ốm, đói
bụng. Ý của anh ta
là lãnh thực phẩm, thuốc men và được ngủ
ngon. Sau khi lấy
cung anh bộ đội này, tôi được biết anh ta là
lính trong một
trung đoàn bộ đội
chính
quy đang di chuyển về phía Nam với
tốc độ rất nhanh nên anh ta theo không kịp.
Tôi bèn dẫn anh
ta đi với tôi trên một chiếc trực thăng UH-1
và bay rất thấp
trên rừng Mả Đá. Tôi thấy một số bộ đội
chính quy đang đi
vất vả trên một
đường
mòn lớn nằm về phía bắc sông Bé, sau
này địa phương gọi là đường Trần Lệ Xuân.
Mỗi lần trực thăng
đến gần vị trí của họ, họ quỳ xuống bên lề đường
và dắt lên
trên đầu một khung tròn nhỏ làm bằng roi
mây, đậy cái nón
cối làm ngụy trang, nhìn bằng mắt thường rất
khó thấy. Lúc
tôi báo cáo về cho Đại Tá,
hình như ông sốt ruột muốn biết
được là có nhiều bộ đội chính quy đang tiến
vào Biên Hòa với
tốc độ nhanh.
Bởi vì đa số đơn vị tác chiến của sư đoàn
đang đi hành
quân tại Phước Long và Bình Dương, nên
lực lượng phòng thủ
hậu cứ rất kém. Hình như Đại Tá đang bị
vào thế khó xử bình
thường của sĩ quan tình báo: nếu mình
rút quân từ Phước
Vĩnh, thì căn cứ này có thể bị đánh
mãnh liệt! Nếu không,
thì hậu cứ tại Biên Hòa có thể bị
tràn ngập! Sau khi nhận
xét hai điều là cuộc công tác trinh
sát của Trung Ương Cục
Miền Nam với lại những bộ đội chính quy đang vượt rừng Mả
Đá
trên đường vào Biên Hòa, Đại Tá
quyết định bổ sung thêm lực
lượng phòng thủ hậu cứ. Nhưng việc này không
phải dễ đâu,
Đại Tá phải thuyết phục tư lệnh sư đoàn là
Thiếu Tướng
Olinto Barsanti cho phép tiểu đoàn Công Binh
326 chuyển từ
Phước Vĩnh về Biên Hòa, bố trí dọc theo chu
vi của sân bay.
Hành động giờ phút chót này tuy
quyết định chậm nhưng mà
đúng vì một số tài liệu bắt được của bộ đội
hậu cần chết
trên đường đi cho biết là cả đơn vị cộng sản
có chuẩn bị
trước để ăn Tết ba ngày sớm hơn bình thường. Tức
là theo chỉ
thị của cấp trên, họ phải mua cá khô, thuốc
hút và trà vào
giữa tháng Giêng để cho các lực lượng cộng
sản trong vùng
được ăn Tết ba ngày trước ngày ngưng bắn mà
cả bốn bên đã
đồng ý sẽ tôn trọng trong thời gian Tết Mậu
Thân năm 1968.
Cuối cùng, đêm trước Tết, một đoàn phụ nữ
trẻ đã đến
thăm bót gác của một đơn vị Địa Phương Quân
đóng đối diện
đầu sân bay. Để tỏ lòng tri ân của dân
làng, các phụ nữ này
đã tặng một số "quà" Tết như là hạt dưa,
kẹo, thuốc
lá và
một cặp rượu. Nhân viên đứng gác, lo an ninh
đêm đó rất vui
mừng vì dân làng đã nhớ đến họ. Thực
phẩm và thuốc lá không
thành vấn đề nhưng cặp rượu rất đặc biệt. Các anh
lính địa
phương vừa nhậu, vừa nghe hợp ca các "tiếng chim"
sung sướng
hết xảy. Nhưng điều đáng tiếc là ngày lễ
vui vẻ, sung sướng
của các ông lính gác quá ngắn,
vì mất tính hết, gục ngã ngay
chính giữa sân bót gác chủ yếu, đo
ván cả. Cũng giờ phút
này, những đơn vị
tiên
phong của các Trung đoàn 274 và 275
bộ đội Bắc Việt chính quy đang lội ra khỏi bóng
tối Chiến
Khu "D" để đi theo đường rầy tàu hỏa về phía
Tây vào
sân bay
Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III,
Trại Frenzell Jones của
Lữ Đoàn bộ binh nhẹ 199, và căn cứ hậu cần quan
trọng nhất
của Mỹ tại Việt Nam là trại Long Bình. Tuy rằng Lữ
đoàn 1
của sư đoàn đã có mặt tại Việt Nam kể từ
năm 1965 và đã đánh
nhiều trận ác liệt với địch, trận đánh Tết
Mâu Thân sẽ là
trận lớn nhất cho hai Lữ đoàn còn lại của sư
đoàn mới qua
Việt Nam vào năm 1967. Trong quá khứ, cả Đại
Tá và tôi đã
thấy các chiến thuật tương tợ của cộng sản trong
lúc tham
gia các trận đánh tại Dak To, Play Cu, Play Me,
Ban Mê
Thuột. Nhưng đa số anh em trong sư đoàn mới từ Fort
Campbell, Kentucky qua và họ sắp sửa tham gia vào
"lễ rửa
tội bằng lửa", tức trận đánh đầu tiên. Trong thời
gian
mới
qua Việt Nam của đơn vị, tức thời gian làm quen
khí hậu
người ta hay gọi là "thời gian khí hậu hỏa",
chúng
tôi kéo
nhau vào những nhà lợp tôn họ dùng để
làm "câu lạc
bộ", uống
bia hộp nóng ừng ực. Bia này khó uống
vì không có đá và loại
ngon, bông trang chẳng hạn không có,
nên phải gắn chịu loại
hạng nhì như là Carling, Ballentine, và
Hamms.
Trong lúc say, anh em khoe khoang nhau về anh nào
sẽ
anh hùng, đơn vị nào sẽ được huân chương
nhiều hơn, ai sẽ
đánh quân xâm lăng Bắc Việt răng đen hung dữ
nhất, hết đánh
ai còn sống, ai chết? Theo tôi tinh thần chiến đấu
cao nhất
kể từ Đệ Nhị Thế Chiến và anh em chúng tôi
rất hãnh diện
được đeo trên vai phù hiệu của sư đoàn anh
hùng là chim đại
bàng. Có thể người ngoài sư đoàn
nhìn thấy khoe khoang nhau,
đánh nhau của anh em
là
hành động của cường hào hét ra lửa,
nhưng thật ra anh em có làm vậy để giải
thoát sức ép chiến
tranh, mặc dù nói thế nào anh em nào
cũng đều sợ chết cả.
Đồng thời anh em nào cũng muốn tiêu diệt quân
xâm lăng từ
Bắc vào Nam để nhân
dân
khỏi phải ở dưới quyền một chế độ
độc tài. Trong nỗ lực này phải có 58,000
anh em gục ngã, hy
sinh trên chiến trường, anh em của Việt Nam Cộng
Hòa phải
gấp bốn lần.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 31 tháng
Giêng, sau khi các nhân
viên địa phương quân tại bót gác mất
hết khả năng hoạt động,
canh phòng, bộ đội Đặc Công Việt Cộng chỉ mặc quần
lót và
treo cái kim băng dây thung ni lông
trên cổ, bắt đầu chui vào
hàng rào kẽm gai và bãi mìn
nằm ở giữa bót gác và sân bay.
Trong khi bộ đội Đặc Công đang dò mìn bổng
nhiên một người
lính của tiểu đoàn Công binh 326 thấy
cái gì rung động nơi
hàng rào và nổ súng trung liên
M-60. Loạt súng nổ liên hồi
vài phút thì có ai hô
lên "đù mẹ, có phải thằng đó bị
điên
không? Nói nó ngưng bắn, ớn quá"!
Chẳng mấy chốc hết cả
chu
vi cùng nổ súng, hỏa lực rất ác liệt.
Tình hình trở thành
cuồng nhiệt nên tôi chưa xác định được ai
là người nổ súng
đầu tiên. Nhưng tôi hứa là nếu một mai gặp
được tôi sẽ bắt
tay và cảm ơn thằng bị điên ấy.
Tuy rằng chúng tôi đã ngăn chận cuộc tấn
công chính
nhưng nhóm bộ đội cộng sản vẫn tiếp tục bắn súng
tự động vào
vị trí của mình qua hết ngày đầu của Tết.
Trong cuộc càn
quét diễn ra sau hỏa lực từ các nhóm bộ đội
lẻ tẻ mãnh liệt
đến mức độ đã có một ông Thượng sĩ
làm thư ký riêng cho
tướng tư lệnh sư đoàn bị trúng viên đạn
vào cổ, gục ngã trên
bàn làm việc trong văn phòng chính
của sư đoàn. Xác chết bộ
đội, cũng như bộ đội bị
thương nằm rãi rác trong đồng cỏ và
bụi cây dọc theo chu vi phòng thủ sư đoàn.
Hình như một số
bộ đội là của đơn vị Biệt động vì trong ba
lô của họ chúng
tôi thấy có quân phục Không quân
Việt Nam Cộng Hòa, mới giặt
ủi. Nếu những lính Biệt
động này lọt vào được trong nội địa
sân bay, đặc biệt là đơn vị Không quân
VNCH, thì tình hình
đã nguy hiểm hơn nhiều. Nếu cộng sản đã
thành công trong nỗ
lực trá hình làm lính VNCH và
bắn vào đơn vị Mỹ, thì thế nào
tình hình phải rối loạn thật sự. Có thể
là như vậy, sau khi
kết thúc trận đánh này, có
trên 500 bộ đội Việt Cộng chết và
thêm 40 người bị bắt làm tù binh.
Ngoài ra có một nhóm bệnh
nhân của nhà thương điên Biên
Hòa "bị bắt" và nhốt chung
với 40 lính cộng sản. Và sau đó một số Việt
Cộng cũng cố
gắng trá hình làm người điên. Một số
khác thì lấy họ tên của
người khác cùng đơn vị đã chết trong trận
đánh. Chúng tôi
xét hỏi thấy phức tạp quá nên phải nhờ Biệt
đội 9 Quân Báo
của VNCH cho mượn một anh Trung Sĩ Thông dịch viên.
Anh ta tên là "Đốc" sinh ra tại miền Bắc và
di
cư với
một nhóm Giáo dân vào miền Nam năm
1954. Chúng tôi lấy một
bộ quần áo của bộ đội Bắc Việt và một túi
vải chứa bản đồ
cho anh Đốc mặc vào.
Khi chuẩn bị xong xuôi rồi, chúng tôi
đưa "tù binh" Đốc này vào trại giam của sư
đoàn,
nhốt chung
anh ta với số 40 bộ đội chính quy Bắc Việt kia. Anh Đốc
chỉ
ở với họ một đêm và báo cho chúng
tôi là họ nói dối hết.
Trong đó có một
anh bộ
đội đã tự xưng là binh nhất bộ binh,
không biết gì về kế hoạch, chiến thuật, v..v..
Ít lâu sau
khi anh Đốc của chúng tôi vào trại
thì anh "binh
nhất" lén
gặp anh Đốc, mắng mỏ, phê bình anh ta, hỏi
vì sao không giấu
túi bản đồ trước khi bị
bắt. Anh ta chỉ thị cho anh Đốc phải
khai tên một anh đã chết trong trận đánh
trước, và nói với
anh Đốc là nếu cố chịu đựng được vài ngày
thì đơn vị đã dọn
đi nơi khác rồi, và khi đó khai thế
nào với Mỹ cũng không hề
hấn gì.
Sau khi ngưng tiếng súng, tại chu vi phòng thủ,
chúng
tôi thấy rõ là có 115 xác chết
bộ đội chồng chất trong rào
kẽm gai. Ngày hôm sau, chúng tôi
dùng máy ủi
"Caterpillar"
đào hố, rãi bột vôi trên xác
chết, rồi san đất cho bằng. Thế
là xác của bộ đội được chôn chung trong một
hố, gần đầu phi
đạo của sân bay. Rất có thể hiện nay những
xác bộ đội vẫn
còn ở nguyên trong hố đó và
cái máy ủi "Caterpillar"
chúng
tôi dùng hồi đó có thể đã được
cộng sản dùng để san bằng
Nghĩa Trang Quân Đội của Việt Nam Cộng Hòa ở ven xa
lộ Biên
Hòa sau "Đại Chiến Thắng" của họ năm 1975. Chúng
tôi
nhận
thấy rằng đa số bộ đội tiền phong ở tuyến đầu trận Tết Mậu
Thân là người Nam đã tập kết ra Bắc nay được
điều động để
trở vô Nam. Sau khi kết luận cuộc tổng tấn công
này, chúng
tôi mới biết là cộng sản sắp sửa ngồi thương thuyết
với
chính phủ mình tại Pháp, với mục
đích thành lập một
chính phủ liên hiệp. Và sau khi suy
xét lại, chúng tôi bàn
nhau về khả năng là chính quyền miền Bắc đã
lợi dụng cơ hội
Tết Mậu Thân để "giải quyết" phần lớn những người đi
theo
cách mạng vì ái quốc hơn là
ái cộng sản; và đó cũng là để
"giải quyết" thành phần có khả năng nêu
lên vấn đề đa
đảng,
đa nguyên trong môi trường chính phủ
liên hiệp.
Chẳng những tình hình tại Biên Hòa
hỗn loạn, mà tình
hình tại tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn
còn căng thẳng hơn. Sáng
sớm ngày 31 tháng Giêng, lính "Biệt
Động" xảo quyệt
là Ông
Ba Đen đến gặp Ông Ba
Thắng, Chính Ủy Đặc Khu Sài Gòn-Gia
Định và Ông Tư Chủ, Tư Lệnh đơn vị, tại Tiệm Phở
Bình, số 7
Đường Yên Đỗ. Sau đó ít lâu, bộ ba
nguy hiểm này cho mở cuộc
tấn công vấy máu Tòa Đại Sứ Mỹ. Lúc
mà Đại Tá Beckwith nghe
báo cáo về tình hình này,
Ông cử người Phụ Tá của Ông là
Thiếu Tá Schwartz cùng với một trung đội
lính Dù đi bằng
trực thăng và đáp xuống trên mái
nhà Tòa Đại Sứ. Mặc dù
Thiếu Tá Schwartz - lẽ ra là "lính văn
phòng" -
trong hành
quân này Ông ta tỏ ra rất hung dữ. Thiếu
Tá dẫn trung đội Dù
từ mái nhà xuống từng tầng lầu, quét sạch
hết tòa nhà. Điều
không may là trong khi giải phóng có
một số nhân viên người
Việt Nam bị bắn nhầm.
Trong cuộc giao tranh tại Tòa Đại Sứ Mỹ, Ông Ba Đen
bị
thương rồi bị bắt làm tù binh. Ba Đen được đưa về
bệnh viện
Chợ Quán để băng bó, trị bệnh. Rồi sau đó
Ông ta được đưa
vào Trung Tâm Thẩm vấn Hỗn Hợp Việt Mỹ gần trường
đua ngựa
Phú Thọ, Trung Tâm Thẩm Vấn Quốc Gia số 3 Bạch Đằng
và Cục
An Ninh Quân Đội. Khác hẳn nhiều đồng đội bị bắt
hồi Tết Mậu
Thân, Ông Ba Đen rất ngoan cố, không chịu hợp
tác với chúng
tôi cho đến lúc đặt chân lên Đảo
Phú Quốc, nơi giam bộ đội
chính quy. Sau khi được trả tự do trong cuộc trao đổi
tù
binh đầu năm 1973, Ông Ba Đen xâm nhập vô lại
miền Nam, rồi
bổ sung vào đơn vị Biệt Động 716, kịp thời tham gia cuộc
tổng tấn công đại quy mô cuối cùng
tháng 4 năm 1975. Sau sự
sụp đổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Ông
Ba Đen về hưu và
ở tại một biệt thự tại Thủ Đức, ngoại ô Sài
Gòn, nay là
thành phố Hồ Chí Minh. Hình như cuộc tấn
công Tết Mậu Thân
đã nhóm lại ngọn lửa trong lòng Đại
Tá Beckwith, bởi vì sau
khi trận đánh kết thúc, Ông đón bạn
học tại Bộ Chỉ Huy và
lên trục thăng về Huế. Sau đó, Đại Tá
vào thung lũng A Shau
làm trưởng một đơn vị cũ của tôi là tiểu
đoàn 2/327 Dù. Bởi
vì khâm phục Đại Tá nhiều nên
chuyên gia trinh sát giỏi nhất
của chúng tôi là
Ông
Roger Brown bỏ Biên Hòa chạy theo Đại
Tá, nhập vào tiểu đoàn 2/327. Vài
năm sau tôi có gặp lại anh
Roger tại Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích. Anh ta
cười giễu
cợt và cho biết là sau khi vào A Shau-A
Lưới với Đại Tá, anh
chỉ đạt được hai kết quả: một là viên đạn
xuyên qua ngực và
hai là huân chương Ngôi Sao Bạc.
Sau khi Đại Tá về A Shau, tôi được đổi đi
làm việc với
Ông Dennis Marasco, mà sau này sẽ mang tiếng
là thủ phạm
trong vụ giết người điệp viên hai mang tại Nha Trang, tức
"vụ ám sát mũ nồi xanh". Ông Dennis
và tôi làm việc
tại
Quảng Trị-Thừa Thiên vài tháng rồi Ông
được chuyển về Lực
Lượng Đặc Biệt. Còn tôi được chuyển về Sài
Gòn làm cho Trung
Ương. Tôi có đọc sách báo nhắc đến
Ông Dennis vài lần, và
cho đến nay tôi chưa gặp lại Ông. Còn đối với
Đại Tá
Beckwith, tôi có gặp lúc mà hai anh
em học cùng lớp tại Đại
học. Ít lâu sau khi tốt nghiệp, cả hai anh em
có nhận được
lệnh qua cộng tác với Trung Tâm Giải Quyết Thương
Vong
(JCRC), nhưng đây là một câu chuyện
khác và tôi sẽ kể lại
lần sau. Cho đến nay Đại Tá chưa biết số phận của anh em
trong chương trình Denta bị mất tại Cao Nguyên. Rất
tiếc là
Đại Tá qua đời vào năm 1995 và tôi
không kịp báo cho Ông
biết là tôi có phỏng vấn một cựu bộ đội sư
đoàn 3 chính quy
tại Sài Gòn năm 1993. Anh bộ đội này cho
biết là anh đã
tham gia trong vụ giết và chôn anh em trong đội
trinh sát và
cung cấp một số chi tiết về anh em Denta mất tích,
có thể
phụ giúp chúng tôi đi tìm.
Quân đội Mỹ và Quân đội Việt Nam Cộng
Hòa, cũng như
quân đội Đồng Minh đã chiến đấu rất can đảm hồi Tết
Mậu
Thân. Tất cả mọi người đã tham gia trận đánh
phải hãnh diện
về nỗ lực cao quý này. Qua nỗ lực của họ hiện nay,
một phần
tư dân số toàn cầu đang sống tự do như Thái
Lan, Mã Lai,
Singapore, Nam Dương, Phi Luật Tân v..v.. Mặc dù Mỹ
phải đổ
vào 122 tỷ Mỹ Kim trong thời chiến, thì bên
phía Liên Xô
cũng hao tài nhiều lắm chứ! Số bạc vàng Liên
Xô phải đóng
góp để hỗ trợ cho Bắc Việt thế nào cũng phải ảnh
hưởng đến
tình hình kinh tế sau này. Chính
đây là một yếu tố quan
trọng đã làm cho Liên Xô bị phá
sản vào năm 1988 và kéo theo
sự gục ngã của Đảng Cộng Sản Nga vào năm 1989.
Đúng đây là
lý do chính mà thế giới tự do đã
thắng cuộc chiến tranh
lạnh! Tôi đã mất nhiều bạn thân trong cuộc
chiến Tết Mậu
Thân; song tôi tin chắc rằng nếu Đại Tá
Beckwith không tìm
đường vòng quanh chế độ hành chánh quan
liêu, thì số anh em
bị thiệt mạng tại Quân Đoàn III còn nhiều
hơn nữa.
Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc di tản ra
khỏi Tòa
Đại Sứ Mỹ, tôi cố gắng tìm người chuyên gia
của Trung Tâm
Khai Thác
Tài Liệu mà
làm cho tài liệu chúng tôi không
có
căn cứ, để xem thử Ông ta có chạy hay là ở
lại với chính
quyền mới. Không thấy Ông ta ở đâu cả. Tuy
nhiên có một cái
không bao giờ thay đổi, là mỗi năm Tết đến,
lúc nào tôi cũng
nhớ lại Tết Mậu
Thân và
bạn bè đã hy sinh trong một trận
đánh quan trọng nhất trong lịch sử nhà nước của
mình.
Tuy rằng cựu chiến binh đã thắng trong chiến trận
quân
sự tại Việt Nam, nhưng do bởi yếu tố chính trị hiện nay
mà
nhân dân Việt Nam chưa có dân chủ tự
do, và sau cùng người
dân không may này đã trở thành
nạn nhân chiến tranh, chưa có
tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do
nhóm họp yên ổn.
Trong quá trình phát triển quan hệ giữa hai
nước Mỹ-Việt, ta
phải nên nhớ là ngoài vấn đề 2200 binh sĩ Mỹ
vẫn liệt kê là
mất tích ra, ta cũng phải cần nhắc sự hy sinh của 58,000
lính Mỹ và trên 200,000 lính Việt Nam
Cộng Hòa đã bỏ mình vì
dân chủ tự do, kẻo sự hy sinh này trở thành
vô ích.
Bill
Bell