anh thuỳ
Đỗ
Đức Thu
Đi đưa đám
ma anh Thùy về, tôi tự thấy bâng khuâng
và vơ vẩn. Không phải buồn,
không phải thương: nhưng là một cảm giác
chán nản về mệt mỏi, như khi
người ta thấy chung quanh mình trống rỗng, những quan niệm của
mình đổ
sụp, những tín ngưỡng bỗng nhiên không còn
nghĩa lý gì.
Tôi
không hiểu ý nghĩa cái chết của anh Thùy.
Nó do những sự chán nản chồng
chất từ lâu, hay do một lúc không tĩnh trí?
Có khi chỉ vì một cớ cỏn
con mà người ta làm những việc to tát, và
đời một người tự sát chưa
chắc là đã có thảm kịch.
Tôi gặp anh trong một đám ma, và lúc
biết nhau là lúc tôi đưa đám ma anh. Ngẫu
nhiên, tôi so sánh hai đám
tang: một đằng nhộn nhịp linh đình, các vòng hoa
tươi tốt rũ hương lại
phía sau, người đi đưa nối dài hàng trăm thước;
một đằng là hai con
ngựa gầy kéo cái xe đã cũ, quan tài phủ
miếng vải đen đã bạc và mấy
người thưa thớt theo sau. Anh Thùy rất ít bạn; họ
đã như tôi; không
hiểu anh và không có gan, hoặc tính hiếu kỳ
như tôi, xa anh đã lâu.
Hai
năm trước, tôi đi đưa ma anh Ninh, đám tang cử hành
từ sáng sớm, trùng
trình tới mười giờ mà chưa ra khỏi thành phố.
Chúng tôi - những người
đi đưa - trịnh trọng dần từng bước ngắn theo sau xe tang, mũ cầm ở tay
tuy trời đã nắng gắt. Duy chỉ có một người đi bên
trái tôi vẫn nghiễm
nhiên đội mũ. Tôi thấy chướng mắt và thầm chê
là vô lễ. Một lúc sau tôi
thấy nắng rát ở gáy. Tôi lấy khăn mùi xoa
giơ lên che, nhưng vẫn không
đội mũ như muốn cho anh chàng kia hiểu rằng đội mũ là
không lịch sự.
Chàng quay nhìn tôi như muốn bảo "Nắng thế,
có mũ sao không đội, lại đi
che khăn mặt?", lấy một điếu thuốc lá ngậm vào miệng rồi
hỏi tôi:
- Ông có diêm không?
Tôi
đưa bao diêm và lại càng ghét thêm. Từ
nãy, một người nhà đám thường
bưng cơi trầu trong có bao thuốc lá đi mời từng người,
nhưng tôi thấy
ai cũng từ chối. Trong lúc kính cẩn nghiêm nghị ấy,
phì phèo điếu thuốc
lá như không tiện. Anh chàng điềm nhiên
hút. Mùi khói thuốc ănglê thơm
ngon sực nức và năm mươi bước sau, một nửa người đi đưa
đã hút thuốc.
Ra khỏi thành phố, xe tang đi mau hơn, người đi đưa cũng rảo
bước. Nắng
càng gắt, những chiếc mũ đã lên cả trên đầu.
Người bên cạnh tôi như để
ý đến sự phía trước. Theo tầm mắt hắn, tôi thấy một
thiếu nữ chít khăn
tang đi cạnh người quả phụ. Thiếu nữ thỉnh thỏang quay lại như
tìm ai,
và khi nhìn đến một thiếu niên đi bên phải
tôi thì mắt dừng lại lâu một
chút.
Khi đã quen Thùy, tôi nhắc lại chuyện hôm ấy.
Anh cười nói:
-
Tôi không hiểu vì lẽ gì tôi phải đi đầu
trần dưới trời nắng chang chang
và nhịn thèm khi có thuốc lá ngon trong
túi. Tôi không muốn phải cảm;
nếu anh không chịu được nắng thì việc gì anh bắt
chước người ta? Thương
anh Ninh hay không là một chuyện khác. Từ
lúc tôi hút điếu thuốc, hình
như thấy thương tiếc anh Ninh hơn lên. Trước kia anh vẫn cho
tôi vay
tiền mua thuốc, bây giờ nhỡ thiếu thuốc, không biết chạy
đến ai?
Tôi
phải khó chịu về câu nói đầy ý nghĩa "vị
ngã". Tôi không muốn thấy một
thiếu niên nhanh nhẹn, một vẻ mặt thông minh, lanh lợi,
ích kỷ đến bực
ấy. Anh Thùy nhận thấy tôi bất bình, ôn tồn
tiếp.
- Tôi nói thế,
anh cho là chướng lắm à? Dù sao tôi cũng
đã có cảm tình với anh Ninh và
đã dám nói ra. Có lẽ trong những người đi
đưa hôm ấy, tôi thương anh
Ninh hơn hết, và tự thương cả tôi sẽ thiếu thuốc
lá. Tôi tự chắc mình
thành thực hơn hết mọi người. Anh coi liệu có ai thật
lòng thương anh
Ninh không? Bắt đầu từ người vợ góa, một người đàn
bà, quá tự kiêu vì
nhan sắc, đã làm anh khốn khổ đến nỗi chỉ muốn lang thang
suốt ngày để
khỏi về nhà nhìn thấy mặt vợ. Anh có tin nước mắt
người đàn bà ấy
không? Hôm ấy như chị chàng khóc dữ lắm.
Cô em gái đi đưa đám ma anh mà
vẫn không quên liếc tình nhân, người con trai
đi bên phải anh. Họ lợi
dụng cả cái chết của người khác để gặp nhau, để đưa mắt,
để khoe vẻ đẹp
trong bộ quần áo tang. Còn các ông đi đưa
nữa! Họ đạo mạo, nghiêm nghị,
trịnh trọng nhận những cái ngả mũ của những người đi ngược lại
chào xe
tang như người ta chào mình. Họ đi thong thả, vì
người cho thuê xe kìm
bước ngựa cho đám thêm trịnh trọng và quảng
cáo cho nhà mình. Anh có
thì giờ nhìn chân người đi trước và đặt bước
đúng bước họ. Ra khỏi tỉnh
xem? Anh không còn kịp tránh những viên
đá nhọn. "Trong khi ấy họ nghĩ
đến gì? Đến anh Ninh? Chưa chắc. Họ nghĩ đến công việc của
họ. Có
người, mới ở nhà ả đào ra vội cho kịp đám ma, nghĩ
đến tình nhân và
chầu hát đêm qua, có người nhẩm tính xem bao
giờ đưa xong để kịp về họp
tổ tôm. Hoặc họ nghĩ đến anh Ninh nhưng chỉ đủ để nghĩ luôn
sang người
vợ góa trẻ và đẹp, thế nào rồi cũng tái
giá. Có lẽ những ý nghĩ đó
chung cho cả ngần ấy người, nhưng không ai dám nói
ra. Họ như đã cùng
bảo nhau giữ một vẻ mặt đạo mạo. Họ không hút thuốc,
không đội mũ,
nhưng khi nắng rát quá, và chung quanh mình
thấy có người đội rồi thì
họ chẳng còn ngần ngại gì. Khói thuốc lá
thơm làm các cậu thèm, cũng
móc thuốc ra hút. Anh xem? Nếu anh có thể vờ chết
để thử tâm tình các
người thân thích anh, thì tôi chắc rằng khi
anh biết rõ rồi, anh sẽ
muốn chết hẳn, không trở lại cõi đời này nữa!".
Hôm đưa đám,
ngẫu nhiên tôi cũng có nhìn cô em anh
Ninh, có thấy cô xinh đẹp và
nghĩ... Bây giờ nghe lời anh Thùy, tôi lại thấy tự
thẹn. Tôi ngượng
nghịu bảo anh:
- Đã đành rằng thế. Trong thâm tâm, người ta
có
thể tha hồ nghĩ, nhiều khi rất nhảm nhí. Nhưng nói ra như
anh, tất phải
bạo lắm, can đảm lắm.
- Hay là đểu lắm, sao anh không nói? Tôi chắc
anh nghĩ thế.
Tôi
không dám cho anh hẳn là đểu, nhưng tôi vẫn
thấy khó chịu về cách thật
thà của anh. Đầu tiên tôi như thấy nó
thô bỉ, sống sượng, nhiều lúc đến
cục cằn. Có câu nghe đến phải ngượng tai, tôi phải
ngượng và thẹn như
cô gái đồng trinh vô tình nghe phải câu
chuyện nhục dục. Anh chàng vẫn
tự nhiên phô diễn những ý tưởng của anh, nhiều
lúc rất táo bạo. Anh
không hề thấy ngượng mồm hay sợ mếch lòng ai. Các
bạn anh, không chịu
được lối sỗ sàng ấy, xa dần. Anh như không quan tâm,
hình như không cần
đến ai.
Duy tôi, tôi vẫn chơi với anh. Hình như tâm
tính anh bổ
khuyết cho tính rụt rè nhút nhát của
tôi, nên mỗi ngày tôi lại gần anh
thêm. Nhiều lúc tôi vui sướng thấy anh rất tự
nhiên diễn tả một ý tôi
thường nghĩ đến mà không tiện nói ra, vì
nó táo bạo quá. Tôi lại gợi
cho anh nói thêm; cố nhiên là anh sa
vào lưới của tôi, nói luôn miệng,
những câu làm tôi phải rùng mình.
Có lúc anh ăn nói cục cằn,
sống sượng như một kẻ vô học. Tôi tưởng như tâm
não anh không còn có ý
nghĩ gì thanh cao nữa. Tôi không hề thấy anh cảm
động, một lần chúng
tôi đứng xem thi thể một người bị xe điện chẹt. Cái đầu
lìa rời ra,
thân chỉ còn là một đống thịt, xương máu,
vò nhàu, trộn lẫn. Anh xem tỉ
mỉ từng tí, lấy thuốc lá hút, rồi bảo tôi:
- Thịt mất máu, nhợt thế này giống như thịt cọp tôi
đã ăn bít tết, nhạt và hoi. Thịt người chắc rằng
có vị ấy.
Tôi
cho là anh đã hư hỏng, hoặc cằn cỗi lắm. Nhưng ngay chiều
hôm ấy, thấy
anh đứng hàng giờ trên cầu Thê Húc, ngắm
bóng trăng dưới hồ thì tôi lại
ngờ câu phán đoán của mình. Tôi thấy
anh rất khó hiểu. Tôi ngỏ ý ấy.
Anh Thùy nói:
- Tại sao khi các anh chơi với ai, lại cứ muốn
hiểu rõ người ta, và nhất là lại cứ muốn người ta
giống mình? Tôi, thì
tôi cho rằng không gì chán bằng biết
rõ một người, biết điều họ nghĩ,
đoán trước được việc họ làm. Tưởng hiểu một người, rồi
đột nhiên thấy
họ có một hành vi khác hẳn với phỏng đoán
của mình, thấy những điều mới
lạ trong một tâm hồn thường ở bên mình mà
mình không ngờ đến, còn gì
thú bằng? Cuộc đời sẽ phong phú biết bao? Trai
gái, những cặp nhân tình
sẽ không bao giờ chán nản, bỏ nhau, vì họ có
dịp luôn luôn kính nhường
người mới.
Nói chuyện với anh Thùy tôi thường thấy tưng tức
khó
chịu. Tôi không đánh đổ được ý kiến của anh,
tôi không hẳn cho là những
giả thuyết, hoặc những lời ngụy biện của một tâm hồn đã
chán chường,
hoặc quá vị kỷ, nhưng tôi thấy nó đột ngột, sống
sượng, không thích hợp
với cõi đời này mà ai ai cũng cần che đậy những
ý nghĩ của thâm tâm,
cho lời giao thiệp thêm lịch sự. Có lần tôi bất
bình nói với anh giọng
như gắt:
- Lý thuyết của anh chỉ thích hợp khi nào
trên thế giới
không còn ai, chỉ có một mình anh, hoặc
lùi lại mười thế kỷ, chứ còn
sống ở xã hội này, chung đụng với mọi người, thì
tôi e rằng những tư
tưởng ấy chỉ có hại cho anh thôi.
Anh mỉm cười ra ý không tin. Quả nhiên những lời
tôi nói thành sự thực.
Đầu
tiên thầy đẻ anh Thùy không bằng lòng đứa con
ngỗ nghịch, không chịu
theo lễ giáo của gia đình. Tính tình
quá tự do của anh, như một con
chim, muốn đập cánh bay khỏi vòng kiềm thúc; anh
bỏ gia đình, ra Hà Nội
định tự lập. Bắt đầu, anh thuê một căn nhà rất lịch sự
giữa thành phố,
rồi dần dần thu lại một túp lều ở ngoại ô. Công việc
của anh không có
kết quả, nó đều đi trái với đường anh dự tính.
Các bè bạn lảng dần.
Những lúc gặp nhau ngoài phố, ở những chỗ chơi bời, họ
vẫn niềm nở
chuyện trò, nhưng cần đến họ để mưu tính công việc
gì, thì không ai
thật lòng cộng tác với anh. Anh gặp toàn những sự
thất bại. Anh như oán
hận mọi người không hiểu anh, đời bạc đãi anh, tính
anh sinh gay gắt,
và càng khó chịu thêm. Nhiều lúc anh
có những lời ngụy biện rất tai ác,
chỉ cốt lấy cái thú ranh mãnh tỏ cho người kia
biết rằng anh không cùng
tư tưởng với họ, và thường khi khinh cả những điều họ nghĩ.
Riêng tôi,
tôi thấy sau thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh ấy một nỗi
chán nản nó ngầm
đục tâm hồn chậm chạp và chắc chắn, như một dòng
nước phá chân một bức
tường.
Nói chuyện với anh Thùy, tôi thường thấy tưng tức.
Tôi lại thăm anh Thùy. Mới đẩy cổng đã thấy tiếng
anh:
- Nhà triết học của tôi đã đến. Hay quá,
tôi đang mong anh.
Anh
Thùy nằm võng, một quyển sách úp trên
ngực. Tôi ngồi xuống mép phản,
cầm lấy quyển sách ngắm nghía. Đấy là một trong
mười quyển sách quý của
anh, đắt tiền và đóng bằng da mềm, phơn phớt xanh, rất mỹ
thuật. Nhiều
lần tôi ao ước có được một tủ sách như thế,
và mỗi khi đến chơi với anh
Thùy, tôi không quên lại góc buồng lấy
một cuốn cầm ở tay trong khi nói
chuyện.
Anh Thùy hỏi tôi:
- Anh ưa mấy quyển ấy lắm à? Thế để tôi biếu anh.
Tôi
ngạc nhiên, không tin rằng anh có thể rời
chúng ra dễ dàng thế. Anh
Thùy đi lấy chồng sách, lấy bút máy đề biếu
tôi vào các trang đầu:
-
Tôi thấy anh yêu sách đẹp. Chúng vào
tay anh cũng được chiều chuộng,
quý hóa. Tôi không giữ được chúng nữa.
Để thất lạc đi thì uổng.
Tôi
ân hận rằng lúc ấy chỉ để ý đến mấy quyển
sách. Tôi không thấy anh vui
vẻ quá, có thể cho người ta ngờ vực. Tôi tưởng anh
định đi chơi đâu xa,
mà không muốn mang nhiều hành lý.
Anh Thùy đi biệt, và không mang chút
hành lý nào: hai hôm sau, tôi được tin
anh tự tử.
Rút từ tập truyện ngắn Nhà bên kia,
Nxb. Cộng lực, Hà Nội, 1942
|
|
|
|