NHỮNG
TÊN
TÔI TỚ CHO NGOẠI BANG
Từ
khoảng hơn một tháng nay, khởi đầu là báo
Công An Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó
là một vài báo
khác dấy lên một chiến dịch thoá mạ chửi
rủa tôi, nhà văn Dương Thu Hương. Với tôi,
không có gì mới lạ. Từ hơn một thập kỷ
trước, tháng 4 năm 1991, khi họ bắt tôi; họ
cũng đã chẳng tuyên bố trịnh trọng trên
mọi phương tiện truyền thông, báo, radio,
télévision... rằng tôi là gián điệp,
bán tài liệu bí
mật của quốc gia cho ngoại quốc, sống
đồi truỵ, làm tình trên cạn dưới
nước với Việt kiều Bùi Duy Tâm... Lần này,
sự vu khống và bôi nhọ cũng không có
gì mới
lạ hơn, nó vẫn là những thủ thuật quen
thuộc của Nhà Nước Cộng Sản. Vả
chăng, trong lịch sử bốn ngàn năm (Cứ
tạm cho là điều đó có thật) hoặc cứ
giả định một con số khiêm tốn hơn: Ba
ngàn sáu trăm năm chẳng hạn, triều đình
Cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay,
dạy cho con gái con dâu vu khống bố hiếp dâm, dạy
con trai chỉ vào mặt bố "đả đảo
thằng bóc lột", dạy cho láng giềng tố cáo
điêu chác, đâm chém, dày xéo mồ
mả của nhau... vào
những năm 1953, 1954 và kéo tới mùa Xuân năm
1955.
Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên lãng,
hẳn
hiểu rõ điều đó. Khi con người đã
đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay
bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự
nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn
lần như thế với tha nhân, huống chi với tôi,
người đấu tranh cho chế độ dân
chủ, đương nhiên tôi là kẻ thù nằm ngay
trên
bia ngắm của họ. Một số người
hỏi tôi:
- Tại sao
bài báo "Tiếng vỗ cánh của bầy quạ
đen" đã được phát tán trong nước,
đưa lên internet, in ở báo ngoại kiều từ ba
năm trước mà bây giờ chúng nó mới
đánh cô ?
Xin thưa:
- Tôi không
phải là kẻ cầm quyền nên tôi không thể trả
lời đích xác động cơ hành động của
họ. Nhưng theo suy đoán, việc này nhằm hai
mục đích. Thứ nhất, sau đám tang Tướng
quân Trần Ðộ, dư luận dấy lên một làn
sóng
bất bình, làn sóng này càng lan
truyền rộng lớn
đến cả những người còn đang bảo
vệ Ðảng Cộng Sản, còn giơ tay tán thành kỷ
luật anh Trần Ðộ cũng phải lên tiếng
chửi rủa nhà cầm quyền là kẻ đểu cáng,
táng tận lương tâm. Vì thế, việc tạo ra
một cái bia mới để chuyển mục tiêu công
luận, lái sự chú ý của đám đông sang
hướng khác là việc họ tính đến
trước tiên. Thứ hai là, sau vụ bắt Nguyễn
Vũ Bình, dư luận xôn xao vì những người
đấu tranh cho dân chủ ngày càng trẻ (Lê
Chí Quang,
Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn đều
thuộc những thế hệ đi sau thế hệ
của tôi). Ðặc biệt là khả năng phê phán
quá
khứ một cách triệt để của họ
(Nguyễn Vũ Bình vốn là nhà báo, biên
tập viên, làm
việc tại tạp chí Ðỏ nhất Việt Nam:
Tạp chí Cộng Sản (Sự Thật cũ), chắc
hẳn nhà cầm quyền cảm thấy những
đợt sóng rung rinh xung quanh họ, họ thấy
nhất thiết phải biểu thị uy thế như
một hình thức Răn Ðe và họ chọn tôi để
Dương oai diễu võ (chứ không Diễu võ
dương oai như thông lệ ).
Bài
"Tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen",
lẽ ra, họ phải đăng lên một cách đàng
hoàng, đầy đủ rồi sau đó muốn mổ
xẻ, băm vằm, chửi rủa kiểu gì cũng
được... Nhưng theo thói quen trùm chăn đánh
lén
của chính quyền Cộng sản, họ trích
đoạn, xào xáo xiêu vẹo, theo kiểu tay kéo
của
người dựng phim nhằm tạo nên một hiệu
quả theo chủ ý. Nhưng thôi, đòi hỏi Nhà
Nước CHXHCN Việt Nam chơi đàng hoàng đúng
luật biết tự trọng và liêm sỉ thì cũng hoang
tưởng như tin chủ nghĩa cộng sản khoa học
của ông Lênin vậy. Bây giờ, tôi xin trở lại
vấn đề chính:
Ai ?...Họ
là ai ?...Những tên tôi tớ cho ngoại bang?...
Trước
hết chúng ta phải thẩm định danh từ: Tôi
tớ. Có hàng chục danh từ họ hàng gần gũi
với quan niệm này, nhưng tựu trung, một ý
nghĩa giản đơn mà mọi người
đều hiểu rằng tôi tớ là lớp người
phải thực hiện những công việc mà
người trả tiền cho họ yêu cầu. Thế nên
tôi tớ của chủ đất thì phải cày bừa
gặt hái; ô-sin chốn thị thành phải quét dọn,
cơm nước, chợ búa; bồi phòng thì phải thay ga,
trải đệm, lau giường... Ðó là một lớp
ngưòi cần phải kiếm sống bằng những
lao động chân tay giản đơn, họ cần xã
hội và xã hội cũng cần tới họ. Theo
nghĩa thứ hai, có tính tiêu cực (négatif)
tôi tớ là
loại người không được quyền nghĩ,
không được quyền nói theo ý mình, nhất nhất
mọi thứ phải xử sự theo ý chủ, và vì
sống trong tương quan đó, họ thường có
thói quen săn đón ý chủ, nịnh bợ ton hót
chủ
và dèm pha những đồng nghiệp - những
người cạnh tranh miếng cơm với họ. Nói
vắn tắt: Ðối với những kẻ có tâm hồn
tôi tớ, chủ là Thượng đế. Bởi
Thượng đế ban phát cho họ chức
tước hoặc tiền và tất thảy những
thiết yếu có thể mua bán được với hai
giá trị cá cược ấy.
Theo kiểu
nhào trộn cả hai ý nghĩa trên, và cố
lùa ghép cho
vừa lòng những kẻ đã gọi tôi là Tôi
tớ, thì
rất có thể tôi sẽ là tôi tớ cho hai người.
Một người Việt. Một người Áo. Cả
hai đều đã chết. Vậy tôi là tôi tớ của
hai hồn ma.
Hồn ma
thứ nhất, ông Dương Ðình Châu, bố tôi. Bố
tôi
dạy tôi là: "Con người có thể mất
hết mọi thứ, kể cả mạng sống,
trừ danh dự. Danh dự bao gồm tinh thần trách
nhiệm, lòng chung thủy và sự trung thực".
Bố tôi cho tôi vào cõi người năm Bính
Tuất,
năm nay gần sáu mươi tuổi, tôi vẫn sống
trong quỹ đạo của nguyên tắc ấy. Chỉ
có điều tiêu chí của nó đã được
tôi thay
đổi. Xưa kia, bố tôi cho rằng: "Bỏ
chồng là điểm nhục gia phong..." thế nên
bằng mọi cách ông bắt ép tôi phải quay về
với người chồng cũ. Và dù tôi đã
thành nhân,
đã có hai đứa con, đã thành người viết
văn, đã kiếm được tiền để thêm
vào nuôi ông và gia đình, bởi lương
hưu của ông
rất thấp, bố tôi vẫn bắt tôi quỳ gối
quay mặt vào tường, rồi làm kiểm thảo
đọc trước mặt ông và họ hàng... những
cuộc kiểm thảo kéo dài hơn hai năm, liên
miên,
không mệt mỏi. Phải qua một thời gian tranh
đấu quyết liệt với tất cả mọi
người, tôi mới tìm thấy tiêu chí của
tôi: "Sống
dưới một chế độ bạo tàn ngu muội
mà cam tâm ngậm miệng ăn tiền cúi đầu
quỳ gối là điểm nhục gia phong, là kéo lê
một sinh tồn vô nghĩa."
Như
vậy, tôi giữ nguyên nguyên tắc chỉ đạo
(principe directeur) và thay đổi tiêu chí (devise).
Tôi là tôi
tớ 2/3 hay 1/2 theo nghĩa tôi tớ đối với
bố tôi.
Hồn ma
thứ hai, Karl Raimund Popper. Tôi chưa có điều kiện
để đọc toàn bộ tác phẩm của ông. Tôi
mới chỉ đọc hai cuốn:
-
Tương lai rộng mở (L'avenir est ouvert - Conversation au
coin du feu entre Konrad Lorenz et Kert Raimund Popper) - Bản tiếng
Pháp
- Biện
chứng là gì ? - Tiếng Việt, dịch từ bản
tiếng Nga.
Và mới đọc gần
đây, nhưng ngay lập tức, tôi hiểu chúng đã
cho
tôi những tư tưởng cốt lõi mà bất cứ
muốn làm khoa học hay nghệ thuật đều
phải coi như điểm tựa.
Popper viết:
"... Chúng
ta cần phải hiểu rằng chúng ta hầu như
chưa biết gì hết về thế giới và về con
người..."
Và:
"... Không
một lý thuyết nào có thể đóng vai
trò thiết
lập trật tự thế giới, chuẩn bị cho
con người đi tới những sự kiện
tương lai hoặc thu hút sự chú ý của chúng
ta vào
những sự kiện mà nếu không có lý thuyết ấy,
chúng ta không thể nào học được cách quan
sát chúng
cả."
Ngay tức
khắc, các ý tưởng trên cho tôi thấy thảm hoạ
của những ý thức hệ gieo rắc cho loài
người. Ở nơi nào, những hệ tư
tưởng tự cho phép chúng là kim chỉ nam cho
tương lai nhân loại, là thứ duy nhất đúng
để dẫn dắt "con người tới
một ngày mai tươi sáng "... ở đó, cuộc
sống đích thực của con người phải
diệt vong. Vậy, tôi có thể tự nhận là tôi
rất sùng bái các ý tưởng trên. Bởi
tôi nghĩ các ý
tưởng đó phải xuất phát từ một ý
thức trách nhiệm cao cả trước sinh mệnh
của nhân quần. Và tính thận trọng, sự khiêm
nhường trong các tư tưởng ấy phản
chiếu một tâm hồn thánh thiện...
Thôi
được, cứ cho tôi là tôi tớ của Popper,
vậy những người đặt cho tôi cái biệt
danh Tôi tớ ấy, đã có lúc nào
tôi hỏi: Liệu
họ có phải là Tôi tớ cho kẻ ngoại bang nào
đó,
cũng mắt xanh mũi lõ như Popper nhưng còn rậm
râu hơn. Và họ đã tự nguyện làm Tôi tớ
cho
ngoại bang từ trước tôi rất lâu, đám Tôi
tớ ngu ngơ hoặc láu cá trung thành với ông
chủ râu
xồm đã hơn một nửa thế kỷ, mở
mồm ra là phun đầy ông Các, ông Lê
nhưng trong thực
tiễn thì chẳng hiểu hai ông thánh tông đồ
râu
xồm trán hói ấy viết gì cả. (Tiện đây, xin
nói rằng ông Kiến Giang cùng Tướng quân Trần
Ðộ đã nhiều lần nói chuyện với tôi về
thứ Chủ nghĩa Mác-Lênin nhãn bò Levis ấy. Cả
miền Bắc XHCN may lắm có chừng 5 hay 6 người
đủ kiên trì và đầu óc để đọc
trọn bộ các tác gia đó - trong đó,
ông Kiến Giang
là một. Bởi ông là một trong những người say
mê CNCS và lại lãnh đạo một nhà xuất bản
của Ðảng. Còn tất thảy những bộ sách
đã in ra là để trang trí cho thư viện và tủ
sách của các quan lớn. Xin cứ thử kiểm tra.
Nhiều cuốn còn chưa rọc).
Nền
văn minh chung của nhân loại là một đại
lộ mênh mông, không ngừng xáo động. Bất cứ
dân tộc nào không muốn bị rớt lại phía sau
cũng phải tìm cách hội nhập vào đó.
Tích hợp với
nền văn minh chung và đồng thời gìn giữ
sắc thái riêng của văn hoá dân tộc
mình, ấy là
hành trình tất yếu của mọi quốc gia. Tôi
chỉ e rằng, có những xứ sở mà kẻ lãnh
đạo cố tìm mọi cách trấn ải những
lối rẽ vào đại lộ của nền văn
minh chung, để giam cầm dân chúng trong sự ngu dốt
lẻ loi, để nhét vào đầu họ những
thứ lý thuyết lỗi thời đã bị thải vào
bãi rác quá khứ, duy trì dân
chúng trong sự sợ hãi, và tình
trạng cô lập tinh thần, và với tất cả
những yếu tố ấy, để chúng mặc
sức bóc lột họ và tàn phá tài
nguyên quốc gia. Không
phải ngẫu nhiên mà người ta đã thống kê:
ở những xứ nghèo đói, dưới các thể
chế độc tài, những hầm mỏ, rừng rú,
thềm đại dương... là những nơi tiềm
chứa tài nguyên thường bị phá huỷ một cách
có tính toán và thành hệ thống để
cướp bóc
vội vã những khoản tiền lớn chuyển ra
nước ngoài.
Bây giờ,
tôi xin trở lại chủ đề chính: Những kẻ
tôi tớ.
Ðể minh hoạ
cho đề tài này, tôi xin kể vắn tắt một
sự kiện, bởi người Việt không ưa
tư duy trừu tượng, họ thích những hình
ảnh cụ thể, những chi tiết có thể cảm
nhận dễ dàng
Năm 1989,
Ðại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 4
diễn ra tại Hội trường Ba Ðình. Trước
khi họp chính thức, có hai ngày họp thử.
Ngày thứ
nhất họp đảng viên. Ngày thứ 2, các nhà văn
ngồi nghe huấn thị. Trong các bậc rường
cột quốc gia lên dạy dỗ đám trí thức
mặt mũi xanh xao kia, có Trung tướng Dương
Thông. Như nhiều người biết ông Dương
Thông là biểu tượng của quyền lực Cộng
sản, của một Nhà nước công an trị. Một
tay ông Dương Thông tống bao nhiêu nhân mạng
vào
trại tù (cho cả 2 phong trào: Nhân văn giai phẩm
và Xét
lại cũng như những nhóm nhỏ lẻ bị tình
nghi là: Không trung thành...). Một tay ông
Dương Thông lên
danh sách bao nhiêu văn nhân tài tử
làm mouchard làm chỉ
điểm cho Tổng cục 1, từ loại nhận quà
hàng năm tới loại được cấp lương
theo tháng và theo quý ?... Chỉ Trời mới biết.
Vào ngày
đó, ông lên dạy bảo các văn nhân rất
nhiều
điều: Tình hình thế giới, tình hình trong
nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, sau rốt
ông răn đe: Ðã có nhiều biểu hiện tha
hoá trong
đám văn nghệ sĩ, và chúng tôi biết đã
có
kẻ nhận tiền của Việt kiều. Lực
lượng an ninh sẽ không dung thứ, v.v... Tới
đó tai tôi ù lên vì tức giận.
Tôi bảo mấy
người ngồi cạnh:
- Ðứng lên
hỏi lão ta xem đích danh ai là kẻ nhận tiền
của Việt Kiều ?... Lão không thể đứng trên
bục mà xỉa xói cả 500 con người như
vậy... Nếu không trả lời được thì anh
em ném guốc dép lên.
Tất
cả đám lắc đầu quầy quậy.
Sẽ có
người hỏi:
- Tại sao
chính bà không đứng lên hỏi mà lại
ngồi
dưới xui kẻ khác?
Tôi xin
đáp:
- Nếu vậy, hẳn là
mọi sự đã kết thúc chóng vánh dễ
dàng. Tôi
sẽ đứng lên chất vấn đối đáp và
trả lại miếng đòn xỉ nhục tức
khắc rồi hạ hồi ra sao thì sẽ tính sau...
Nhưng
tiếc thay lúc ấy tôi đang ăn bánh gateau. Tôi
đói.
Chúng tôi rủ nhau tán gấu qua bữa cơm trưa.
Và
thế là tôi đành mang bánh ngọt vào
hội
trường... Lúc ấy xui mọi người không
được, tôi chạy ra phía sau nơi đặt thùng
nước uống để chiêu miếng bánh. Xong
việc chạy vào, Tướng Dương Thông đã
xuống bục, lui vào phía sau hội trường.
Giờ
giải lao, những nhà văn già ứa nước mắt
bảo tôi:
- Chúng tôi
đã đánh mất cả cuộc đời đi
đánh Pháp. Ðánh bọn thực dân da trắng
mũi lõ
để rồi để bọn thực dân nội
địa , da vàng mũi tẹt nó nhục mạ bây
giờ.
Những nhà
văn già héo hắt ấy tôi nhớ nguyên dáng
vẻ và
những khuôn mặt vừa đau đớn, vừa
khiếp nhược của họ tới tận bây
giờ
Sau hội
nghị Nhà văn, tôi tìm cách báo
thù. Vô cùng khó. Tôi không
biết đánh nhau, không biết bắn súng, không
được dạy dỗ để trở thành thích
khách. Năm 1990, tôi gặp ông Bùi Duy
Tâm, do một sự tình
cờ như trời xui đất khiến. ông Tâm nói
với ông Trần Văn Thuỷ rằng vào ngày hai
người có hẹn, ông sẽ phải tới nhà ông
Dương Thông để ăn cơm, rằng gia đình
ông đi Ðồ Sơn tắm biển và ông Dương Thông
sẽ cho xe riêng đón họ trở về, bởi thế
cái hẹn đành hoãn lại. Trong giây lát
tôi hiểu ông Bùi Duy
Tâm là cơ hội trời cho tôi, giúp tôi
trả thù cho
một đám đông bị nhục mạ - và những
người gọi là trí thức XHCN thường
được nếm sự nhục mạ như thế
dưới mọi dạng thức, trong một chế
độ mà dù tuyên bố hay lặng im họ cũng chỉ
coi Trí thức như Cục cứt - theo định
nghĩa của người cầm lái vĩ đại
họ Mao.
Ðoạn sau
là:
Trời
đã giúp tôi thành công. Trong chuyến
đi chơi Sông Ðà
với các ông Bùi Duy Tâm và Bùi
Duy Tuấn, tôi đã mất 3
cuốn băng ghi toàn những chuyện ba hoa, hươu
vượn. Nhưng vào đoạn chót của cuốn
băng thứ 4 ông Tâm đã thú nhận:
... Ồ, Anh
đã cho Dương Thông rất nhiều tiền. Anh đã
cho Dương Thông rất, rất nhiều tiền...
Sau chuyến
đi đó chừng vài ngày, họ bắt tôi. Trong thời
gian ấy tôi đã kịp sao băng ghi âm ra vài
bản,
gửi ra 3 nước: Pháp, Tiệp và Mỹ.
Do sự can
thiệp của chính phủ Pháp, đặc biệt là bà
Daniel Mitterand và phong trào nhân quyền thế giới,
ngày
20/11 họ buộc phải tha tôi ra, sau gần 8 tháng giam
giữ không xét xử. Lúc đó ông
Bùi Thiện Ngộ là
Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ông Ngộ cử
thiếu tá Sơn tới gặp tôi:
- Theo đúng
pháp luật thì chị có quyền kiện Nhà nước.
Nhưng Bộ trưởng muốn tìm một khả
năng mềm dẻo hơn có lợi cho cả 2 bên.
Tôi
cười. Tôi hiểu cái sự kiện tụng ở
xứ sở này ra sao. Tôi yêu cầu cuộc thanh toán
với
Dương Thông. Bộ Nội vụ chấp thuận.
Vào mùa
Xuân
năm 1992, đại diện của Bộ Nội vụ
là ông Bùi Quốc Huy (tức Năm Huy) - Tổng cục
trưởng Tổng cục An ninh, tiếp tôi có sự tham
gia của Ðại tá Nguyễn Công Nhuận, người ký
lệnh bắt và phụ trách nhóm người tra hỏi tôi
trong nhà giam. Trong cuộc gặp này, tôi nói:
- Tôi hiểu
rất rành rọt tôi đang chơi trò trứng chọi
đá. Bởi thế, lúc nào tôi cũng chuẩn bị cho
cái chết của tôi.
Tuy nhiên, tôi
lại không ưa chết một mình. Nên tôi cũng
trù
liệu để sau cái chết của tôi, ít nhất
cũng phải có dăm bảy đứa khác phải
chết theo để tiếp tục chiến đấu
dưới âm phủ, nếu không dưới đó rất
buồn. Tôi có vũ khí của tôi. Trong tay
tôi có 2 cuộn
băng ghi âm. Cuộn thứ nhất liên quan tới một
trong những kẻ tạo dựng ra Nhà nước này,
sư tổ của những người như ông. Nó
tố cáo nhân cách một trong các bậc lương
đống của triều đình chỉ là loài
đểu giả, tâm tính hiểm ác, vô luân.
Cuốn thứ
2, chắc ông cũng đoán được, ghi lại
cuộc nói chuyện của ông Bùi Duy Tâm với
tôi, trong
đó ông Tâm khẳng định là đã cho
ông Dương
Thông rất, rất nhiều tiền. Ấy hẳn là món
thù lao cho việc ông Dương Thông đã 2 lần cứu
ông Tâm ra khỏi trại giam, thêm nữa, đón rước
ông Tâm đi tới tất thảy những lầu cao
thềm rộng từ dinh cơ bà Tướng Nguyễn
Thị Ðịnh tới Bộ Tổng Tham mưu - Bộ Quốc
phòng, từ nhà riêng các vị chóp bu
Nhà nước xuống
tới đám quan chức kề cận, để bàn
định những đại sự như bán kho vũ
khí Long Bình, bán dầu thô và những
nguyên liệu khác...
Như vậy tôi có trong tay bằng chứng về
người tiền nhiệm của ông, gương
mặt tiêu biểu cho quyền lực của chế
độ này. Hai băng ghi âm đó đã được
chuyển tới 3 nước: Pháp, Tiệp, Mỹ. Nếu
các ông đủ lực xin cứ việc truy tìm. Nhưng
tôi không tin điều ấy. Các ông không
có tiền. Nhân viên
sứ quán Việt Nam ở nước ngoài đơn
thuần là bọn buôn lậu, quay cuồng trong cơn
lốc cóp nhặt đô la. Ở nước ngoài, các
ông
bất lực. Còn ở đây, các ông có thể. Giờ các ông có thể tiếp
tục tổ chức tai nạn xe máy để kẹp
chết tôi, có thể đầu độc tôi, có thể
làm bất cứ một điều gì khác nữa nhưng
vào thời điểm tôi chết, chắc chắn phải
có kẻ đồng hành. Không tức thời, nhưng
sớm hay muộn cũng sẽ có. Và thêm nữa, những
người thân của tôi ngoài biên giới sẽ lần
lượt công bố các cuốn băng kia.
Cả 2
người đàn ông lặng thinh rồi một
người mở chai nước, một người
mời tôi ăn nho. Họ hỏi tôi về sức
khoẻ, con cái, nhà cửa... làm như là một
cuộc tán
gẫu giữa mấy người hàng xóm. Tuy nhiên, tôi
chẳng phải là một đứa bé nên tôi hiểu
cái
thái độ người thường gọi là: đánh
trống lảng... ấy. Bất cứ kẻ đạo
đức giả nào cũng sợ sự thật. Tất
thảy mọi quốc gia, mọi thể chế
đều có bọn đạo đức giả. Nhưng
chắc chắn, không ở đâu con người buộc
phải trở thành đạo đức giả như
ở đây, một xứ sở mang xiềng xích của 2
thể chế: Phong kiến và Cộng sản.
Trước
khi về, tôi nói thêm:
-
Xin nhắc lại rằng, tôi
đứng trước guồng máy của các ông chỉ là
trứng chọi đá. Nhưng vì đã dấn
thân vào cuộc
chơi này, tôi bắt buộc phải học lấy vài món
nghề của các ông. Vậy, các ông theo
rõi tôi, tôi cũng
theo rõi lại các ông. Tôi biết ông (Năm
Huy) thường
uống rượu ở đâu, chơi gái ở đâu.
Trong hội Quý Mùi (những người sinh năm 1943) ông
vẫn tụ họp với những ai và đem theo
loại rượu nào. Thành thực mà nói,
trên phương
diện này, đôi khi trứng còn mạnh hơn đá.
Các
ông rất nhiều tiền, các ông thèm khát
sống, thèm
uống rượu Tây, thèm chơi gái, thèm xây
nhà lầu...
Tôi là kẻ phá sản, tôi không uống rượu
cũng
không chơi điếm, tôi có thứ sức mạnh mà
sư tổ của các ông thường vẫn gọi
"sức mạnh của giai cấp vô sản". Riêng
về luận điểm này, tôi thấy Mác đúng.
Bởi vì, nói một cách sòng phẳng, với tất cả
những thèm muốn ấy các ông sợ chết hơn tôi.
Ðó cũng là
lời giã biệt. Sau đấy, tới cuộc gặp
mặt giữa tôi và Dương Thông. Họ không xuất
hiện nữa. Chỉ có người phục vụ mang
tới một đĩa nho và mấy chai nước.
Vẫn trong căn phòng 15 Trần Bình Trọng...
Tôi không
kể lại cuộc thanh toán giữa tôi với Trung
tướng Dương Thông. Thực chất, đó
chỉ là một trận nhục mạ kẻ vốn
thường quen nhục mạ nhiều đám đông khác,
một cơn giải toả tâm lý. Với tôi, thế là
ổn. Tuy nhiên, tôi ghi băng cuộc gặp gỡ đó,
đem về cho vợ chồng ông Kiến Giang nghe. Ông
Kiến Giang là một trong những nạn nhân của
chế độ, đã ngồi tù hơn một thập
kỷ vì Xét Lại... Ông ấy cần được nghe
để xoa dịu phần nào những năm tháng đau
khổ. Vợ ông ấy cùng cần nghe để bớt
chút căm hận vào những năm tháng nuôi con
một mình.
Ông Dương Thông là thủ phạm trực tiếp
của hàng trăm gia đình như thế, nhưng tôi
không
có khả năng làm công tác tuyên truyền.
Sự việc
dừng ở đó, vào mùa Xuân năm 1992.
Từ đó
tới nay hơn một thập kỷ đã qua. Tôi vẫn
được bình yên, phải chăng nhờ ơn
phước của hai cuốn băng ghi âm kia ?... Dẫu
sao người ta cũng phải cố vá víu tấm màn che
sân khấu.
Giờ
đây, thời gian đã đủ hiệu lực. Nhân
dịp người ta thoá mạ tôi, gọi tôi là kẻ
tự nguyện làm tôi tớ cho ngoại bang, tôi công
bố
sự thật thứ nhất, tôi cung cấp cho công
luận một ví dụ hết sức tiêu biểu cho cái
hình ảnh tôi tớ cho ngoại bang: Ông Bùi Duy
Tâm tuy không
mắt xanh, mũi lõ nhưng là công dân Mỹ, sống ở
nước Mỹ, tiêu tiền Mỹ. Với những
nắm đô-la, ông Tâm đã sai khiến được
Trung tướng Dương Thông làm những việc khó
khăn hơn ngàn lần những công việc tôi tớ
như giặt ga giường, cọ toilettes... Ông Tâm
rất biết làm ông chủ và Trung tướng
Dương Thông cũng là kẻ làm tôi tớ cho ngoại
bang một cách hào hứng và xuất sắc.
Tuy nhiên,
ở Việt Nam, không chỉ có những tên tôi tớ
đơn độc, tôi tớ trên danh nghĩa cá nhân.
Còn có
những đám tôi tớ, thứ tôi tớ tập thể,
tôi tớ bầy đàn, một thứ tôi tớ chung
lưng đấu cật để làm những trọng
trách tôi tớ. Vì là một số đông
nên những tên
tuổi chen chúc trong sự chật trội, nhù nhoà,
những gương mặt chồng chéo lên nhau để
tạo ra một mớ hỗn độn, những hình
ảnh chập trùng, xáo trộn, để tạo ra
một mù mờ khối lớn - vừa hù doạ
người khác vì thể tích kềnh kàng, vừa bất
khả duy danh.
Lãnh
đạo tập thể, làm chủ tập thể và
tập thể làm chủ.
Thật
đúng là trò chơi chữ, đánh tráo
khái niệm của
kẻ gian manh.
Người
dân Việt Nam hẳn đã quá đủ trải nghiệm
để hiểu rằng: tập thể làm chủ có
nghĩa rằng không ai làm chủ thực sự hết,
không một cá nhân nào chịu trách nhiệm
thực sự
trước toàn thể dân chúng cũng như trước lịch
sử mai sau. Bởi thế, người ta có thể nhân
danh làm chủ tập thể để tàn phá tài sản
quốc gia, để bán đất đai mồ mả
của xứ sở, để đẻ ra những công
trình vô hiệu lực nhằm hớt lấy những món
tiền khổng lồ rót vào những tài khoản riêng
ở các ngân hàng ngoài nước. Rồi sau
đó,
để cho cái tập thể làm chủ kia chịu
hầu tòa. Nhưng cả cái làm chủ tập thể
lẫn cái tập thể làm chủ kia đều vô danh vô
tính vô dạng vô hình. Chúng chỉ
là thứ trò chơi
chữ để đánh tráo các khái niệm, tạo ra
một thứ mê cung để hù doạ đám
người có chữ và lừa mị dân đen.
Vì vậy,
tôi xin trở lại với lối nói dân gian, với
một tính cách đậm đà bản sắc dân tộc. Người
nhà quê xứ Việt có câu: "Ăn cơm muối, sờ
đầu gối, nói thật ".
Tôi không hay
ăn muối mà ăn nước mắm và không cần
phải làm dấu phép sờ đầu gối, tôi cũng
có thể dễ dàng nói lên một sự thật. Một
sự thật hiện diện từ 3 năm nay, khoảng
trên dưới một ngàn ngày, ngự trị trong
đời sống tinh thần của hơn 70 triệu
người dân Việt Nam như một cơn ác mộng
kéo dài, như một nỗi đau không giải thoát,
như
căn bệnh hiểm ác không phương cứu chữa.
Ðó là cơn ác mộng - là nỗi đau phải che
giấu
- là nỗi nhục nhã phải ghìm nén - là
mối căm thù
phải ngụy trang - của một dân tộc bị
tước đoạt, một dân tộc một lần
nữa chấp nhận thân phận chư hầu dâng cống
đất đai cùng lãnh hải cho Vương triều
phương Bắc.
Có những
cái tên giờ đây vang lên trong lòng
người dân như
tiếng tù và âm u xa xôi của lịch sử, như
tiếng gươm khua giáo động ngàn năm vọng
lại: thác Bản Giốc, suối Phi Khanh, hang Pắc-bó
và hàng trăm các địa danh các bản
làng chạy
dọc theo biên thuỳ Tổ Quốc. Bản Dốc,
ấy là một danh lam. Nước Việt mai sau muốn
mở mang du lịch thì phải có các danh lam. Suối Phi
Khanh, ấy là con suối huyền thoại vì tương
truyền nó khởi nguồn từ những dòng
nước mắt ly biệt của cha con Phi Khanh -
Nguyễn Trãi, một kỷ niệm được
biểu tượng hoá củng cố cái lâu đài ký
ức về tinh thần yêu nước của
người Việt. Bây giờ, nói như ông Trần
Dũng Tiến, một trong những người lính già
Quyết tử quân giữ thành Hà Nội trong cuộc
chiến tranh chống Pháp năm 1946: Bây giờ muốn nhìn
thấy suối Phi Khanh thì phải sang Tàu...
Vậy thì,
kẻ Tôi tớ cho ngoại bang nào đã cắt
đất, cắt biển của non sông (không gấm vóc mà
nghèo khổ lầm than nhưng là non sông của
chúng ta,
xương cốt của Tổ Tiên ta đắp lên bao
nhiêu tầng trên mỗi tấc đất biên thuỳ).
Kẻ Tôi tớ nào đã cắt đất đai, lãnh
hải để dâng lên Vương triều phương
Bắc ?...
Cái tập thể
làm chủ nào vậy ?
Cái tập
thể làm chủ ấy bao gồm 11 hay 13 nhân mạng, 11
hay 13 súc thịt khoát complet và thắt cravate, 11
hay 13 đôi
giầy đen bóng nhoáng dưới chân, 11 hay 13
khuôn mặt
vuông tròn, dài ngắn, nhăn nheo hay bự mỡ,
lưỡi cày hay quả trám, 11 hay 13 cái đầu đen,
bạc hay hoa râm...
Một
khối hình ảnh nhập nhoạng mù mờ, một
khối nói cười nham nhở, một khối quan
dạng lấm lét...
Một
tập thể Tôi tớ cho ngoại bang.
Người
Việt vốn ưa sự cụ thể, vì chưa có thói
quen tư duy trừu tượng. Tôi đã làm một
việc cụ thể là cung cấp cho bạn đọc 2
ví dụ về khái niệm Tôi tớ cho ngoại bang. Mai sau
khi dạy dỗ con cháu chúng ta về tinh thần yêu
nước, sách giáo khoa có thể cho thêm 2
ví dụ
điển hình cho thời đại này:
- Một
kẻ có danh tính rõ ràng là Trung
tướng Dương Thông.
- Một
Tập thể tôi tớ được gộp chung trong cái
danh từ mơ hồ này: Bộ Chính trị - Vì những
kẻ bán mình cũng phải có thứ chính trị của
nọ
Người
đọc có thể sẽ hỏi tôi:
- Còn cuốn
băng ghi âm thứ 2, cái sự thật thứ 2 ?
Tôi xin
trả lời:
- Theo quy
luật chương hồi, nó còn phải ẩn mình trong
bóng tối.
DƯƠNG
THU HƯƠNG
Hà Nội, ngày 16
tháng 10
năm 2002.