CHỮ
HIẾU TRONG
TRUYỀN THỐNG VĂN
HÓA VIỆT NAM
Nguyễn Đức Cung
Dân
tộc Việt Nam vốn là một dân
tộc thấm nhuần giáo lý Khổng Mạnh từ
những thời kỳ lập quốc cho tới ngày nay.
Nền văn minh nông nghiệp và hệ tư tưởng,
triết lý đến từ phương bắc là Trung
quốc đã cố kết và nhào nặn dân tộc
Việt Nam trong quá trình xây dựng và
phát triển
đất nước mà trong đó gia đình là một
cơ cấu căn bản rất cần thiết cho
sự sống còn của dân tộc qua trường kỳ
lịch sử. Các mối liên hệ tương quan
giữa các thành viên trong gia đình Việt Nam
đã
được biểu thị qua hệ thống tam
cương, ngũ thường mà sách vở kinh
điển của Nho gia như Luận
ngữ, Mạnh tử,
Đại học, Trung dung hay các kinh Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, Xuân thu tuy vốn là
những « sách thánh » của Trung quốc
tự ngàn
xưa nhưng vẫn còn hay nhắc đến, trong đó
chữ hiếu có ảnh
hưởng rất đậm nét trong phong cách hành xử
của người Việt Nam. Tinh thần hiếu
đễ đã hun đúc nên tâm tính hiền
hòa, nhẫn
nhục của người Việt Nam chính là yếu
tố cốt cán giúp cho xã hội bền vững và gia
đình phát triển qua nhiều thế hệ. Bởi
thế, tìm hiểu ý nghĩa của chữ hiếu qua
truyền thống văn hóa Việt Nam
cũng là thiết thực đóng góp chút ít
suy tư với
độc giả nhất là tầng lớp thanh niên
Việt Nam đang ngày càng đạt được
nhiều thành công trong việc ổn định cuộc
sống tại hải ngoại.
I.- TÌM HIỂU
TỪ NGUYÊN CHỮ HIẾU.
Từ nguyên
(étymologie) là nguồn gốc, lịch sử hình
thành và phát
triển của một từ hay một chữ trong
thời gian về trước và hiện tại, chính
là yếu tố giúp cho
người đọc hiểu rõ ràng ý nghĩa của nó.
Căn cứ theo lục thư
(sáu cách viết chữ Hán của người Trung hoa
gồm có chỉ sự, tượng hình,
hài thanh hay hình thanh, hội ý,
giả tá, chuyển chú)
chữ hiếu
được cấu tạo theo lối hội ý nghĩa là kết
hợp nhiều ý nghĩa của nhiều chữ.
Theo linh mục L.
Wieger, ý nghĩa và kết cấu hình thành của
chữ hiếu (Hsiao, Filial piety)
đã được biện
giải « là điều mà
các con em mắc nợ đối với bậc
trưởng thượng nói chung và đối với
bậc cha mẹ nói riêng, là kẻ phụng sự cha mẹ
rất chí tình, viết một phần gồm chữ lão
(già cả) bỏ bớt nét và gồm với chữ tử (
con) » 1. Linh mục L. Wieger thuộc
Dòng Tên là
một nhà Trung hoa học nổi tiếng trên thế
giới trong nhiều thập niên trước đây
với rất nhiều công trình biên tập giới
thiệu cùng độc giả Tây phương các tác
phẩm kinh điển của nền văn hóa cổ Trung
hoa. Sách vở biên tập của ông đã được
nhiều thế hệ sử dụng trong đó có rất
nhiều tầng lớp độc giả, trí thức và
giáo sư Đại học Việt nam. Ý nghĩa nhà bác
học này muốn nhấn mạnh tới qua chữ hiếu
đó là mối liên
hệ mật thiết giữa lớp người trưởng
thượng và con cháu của họ, một mối quan
hệ hỗ tương rất chặt chẽ trong ý
nghĩa của chính ngôn từ và trong đời sống
thực tế ngoài xã hội.
Một kiến
giải khác được hình thành trong một cuốn
sách
viết về nền văn hóa tâm linh xuất bản
mới đây đã có trình bày rằng
« theo hình tượng chữ hiếu
trên phần đầu
chữ khảo
cha,
dưới chữ tử là người con, giữa có cái
gậy vắt ngang, hiếu là con mũ gậy cha
mẹ. » 2 Ý kiến
giải thích như
vậy cũng có tính cách khả tín. Tuy vậy xem
lại hai
cách giải nghĩa chữ hiếu
thì trong đó các tác giả có phần
nào gượng ép.
Theo linh mục
Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (1891-1979), giáo sư
Hán
văn của Trường Đại Học Văn Khoa
Huế, Sài Gòn và Viện Hán học Huế trước năm
1975, một bậc túc nho cuối cùng của nền Hán
học cổ truyền Việt Nam, thì chữ hiếu được
kết hợp bởi chữ thổ
là đất, nét sổ xiên
từ phải sang trái và
chữ tử
là con, nghĩa chung là
« đứa con chịu nằm xuống đất và
để cây roi trên mình cho cha mẹ đánh
thì đó là
đứa con có hiếu. » Lối giải thích từ
nguyên của vị giáo sư thâm nho này cũng
có những
nét đặc sắc và gần gũi với nền giáo
dục trẻ con của Việt Nam ngày trước (Thương con cho
roi cho vọt,
ghét con cho ngọt cho bùi), một lối giáo dục
nặng hình thức thương yêu mà trấn áp, răn
đe.
Theo học giả
Thiều Chửu, chữ hiếu
có hai nghĩa : 1.- Thảo, con thờ cha mẹ hết
lòng gọi là hiếu. 2.-
Tục gọi đồ
tang phục là hiếu. Như xuyên hiếu -
mặc đồ tang (để tang). Thoát hiếu -
chút đồ tang (đoạn tang)
v.v. Sách Hán
Việt Từ Điển của Đào Duy Anh
cũng có những giải thích tương tự.3
II.- MỘT SỐ
Ý NIỆM VỀ CHỮ HIẾU TRONG CÁC TÔN
GIÁO VÀ TRIẾT THUYẾT.
Đất
nước Việt Nam là nơi gặp gỡ của
nhiều tôn giáo như Nho, Phật, Lão (tam giáo
đồng
qui) và về sau với sự góp mặt của Thiên chúa
giáo
cùng với một số tôn giáo có tính
cách địa
phương như Cao đài, Hòa hảo nên có thể
nói
được rằng ảnh hưởng của các tôn
giáo đã đặt những dấu ấn rõ rệt trong nền
văn hóa của dân tộc mà điển hình là
một
số ý niệm của các tôn giáo về vấn đề
chữ hiếu nói chung. Có
thể nói hầu hết mọi tôn giáo và triết
thuyết Á đông đều khuyến khích con cái sống
hiếu thảo đối với cha mẹ, các bậc
trưởng thượng và tinh thần hiếu đễ
có khi được coi là một tập tục sâu sắc,
một tín ngưỡng (hiếu đạo).
1.- Thiên chúa giáo
và vấn đề chữ hiếu :
Giáo lý của Thiên
chúa giáo có điều răn thứ bốn dạy là
« thảo kính cha mẹ ». Trong sách Huấn Ca của Cựu Ước người
ta đã đọc thấy những lời dạy như
sau :
Hỡi các con, hãy nghe
cha đây,
Và làm thế nào
để các con
được cứu độ
Đức Chúa làm cho
người cha
được vẻ vang vì con cái
Cho người mẹ thêm uy quyền
đối với các con.
Ai thờ cha thì bù đắp
lỗi
lầm
Ai kính mẹ thì
tích trữ kho báu
Ai thờ cha sẽ được vui
mừng vì con cái
Khi cầu nguyện họ sẽ
được lắng nghe.
Ai tôn vinh cha sẽ được
trường thọ,
Ai vâng lệnh Đức Chúa
sẽ làm cho
mẹ an lòng. 4
Trong
sách Tin Mừng
Thánh Mát-thêu (15, 1-
6) có một đoạn liên
hệ tới đạo hiếu, nói về thái độ
của Đức Kitô đã cảnh cáo lớp người
giả đạo đức thời đại của
Ngài: « Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu
và
mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp
Đức Giê-su và nói rằng : « Sao
môn đệ ông
vi phạm truyền thống của tiền nhân, không
chịu rửa tay khi dùng bữa ? » Người
trả lời : « Còn các ông, tại sao
các ông dựa
vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều
răn của Thiên Chúa ? Quả thế, Thiên Chúa
dạy : Ngươi hãy
thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ,
thì phải bị xử tử. Còn các ông,
các ông lại
bảo : « Ai nói với cha với mẹ
rằng : những gì con có để giúp cha mẹ,
đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì
người ấy không phải thờ cha kính mẹ
nữa ». Như thế, các ông dựa vào truyền
thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên
Chúa... » 5
Ý
nghĩa hiếu thảo và thương yêu
giữa cha mẹ với con cái cũng được Thánh
Phao-lồ nhắc đến trong Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê : «... Kẻ
làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì
đó là
điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha
mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng
ngã lòng » 6.
Căn
cứ theo các tài liệu lịch sử
hiện nay thì Thiên chúa giáo xuất hiện ở đất
nước Việt Nam vào quảng đầu thế
kỷ XVI. « Theo sách Dã
lục thì tháng 3 năm Nguyên-hòa thứ nhất
(1533)
đời Lê-Trang-Tôn, có người Tây-Dương tên
là
I-nê-Xu lén lút đến xã Ninh-Cường, xã
Quần Anh,
huyện Nam-Châu, và xã Trà-Lũ huyện
Giao-thủy, ngấm
ngầm truyền bá tả đạo Gia-Tô.Thế
là, ít ra, từ đó, đạo Công-giáo
đã được biết ở Nam-Định. »
7
Đạo Công giáo
khi được truyền bá vào Việt Nam cũng
đề cao tinh thần chữ hiếu trong bất cứ
mọi trường hợp của cuộc sống, ngay
cả đến khi cận kề cái chết, nên hoàn toàn
có
khả năng để thích ứng với cá tính
đạo đức của dân Việt Nam và tình huống
xã hội của đất nước chúng ta.
Trong một bài báo
đăng trên Tạp chí Thế
Kỷ 21 số 161 tháng Chín 2002, tác giả
Ngô Nhân Dụng
đã đề cập tới quyển sách của nhà
truyền giáo De La Bissachère xuất bản hồi
đầu thế kỷ 19 (sách in ở Paris năm 1812, tuy
nhiên đã được in ở Luân Đôn từ năm
trước) nhan đề État
Actuel du Tunkin, de la Cochinchine, et des Royaumes de Cambogde, Laos,
et Lac
Tho (Tình trạng đương thời ở xứ
Đàng ngoài, Đàng trong, và các vương
quốc Cam
Bốt, Lào, Lạc Thổ).Giáo sĩ De La Bissachère
đã
sống ở các xứ trên trong 18 năm dưới thời
vua Gia Long. Bài báo của tác
giả Ngô Nhân Dụng có đoạn viết :
« Một
nền tảng của nền đạo lý dân tộc
ở Việt Nam là đạo hiếu, thể hiện qua
tục thờ cúng tổ tiên. De La Bissachère ghi nhận
người Việt Nam thờ cúng tổ tiên và « coi
họ như những người ở trên trời,
những thần linh bậc nhì còn săn sóc và bảo
vệ gia đình họ », và tin rằng « tổ
tiên
lúc sống càng thánh thiện bao nhiêu
thì lúc chết càng có
sức mạnh linh thiêng bấy nhiêu ».
Có lẽ đây là một cách
diễn tả niềm tin về « phúc đức ông
bà » của người Việt. De La Bissachère viết,
« Người già cả được tôn kính với
thái độ giống như trong tôn giáo. »
Ông nhận
xét rằng ngoài chính sách cấm đạo cũa vua
chúa thì
đây là một trở ngại cho việc truyền
đạo Thiên chúa ở Việt Nam, « tục thờ
cúng tổ tiên, việc thờ cúng có vẻ
ngoài như
một tín ngưỡng. Các vị thừa sai thuộc dòng
Tên đã chấp nhận phong tục này, mà họ thấy
không thể cắt lìa phong tục đó khỏi các
dân
tộc này được ;... mà trong các bổn phận
đối với tổ tiên đó, tất cả chỉ là
để tỏ tình thương và lòng tôn kính,
nhưng Rome
không thể chấp nhận ý tưởng khoan dung
đó. » 8. Lập trường của Giáo
hội Roma về sau cũng tỏ ra rất uyển
chuyển không còn cứng ngắc như trước
đây, nhất là sau thời Công Đồng Vatican II,
đối với một số các phong tục Á đông
như việc thờ cúng tổ tiên, vấn đề hôn
phối với người khác tín ngưỡng v.v...
Trước
đây trong thời kỳ đạo Công giáo bị các
chế độ phong kiến bách hại, người ta
đưa ra lý luận rằng theo Công giáo là bỏ
ông bà,
bỏ bàn thờ gia tiên, bỏ đạo hiếu. Lý
luận đó đã bị thực tế chứng minh trái
ngược lại. Linh mục Nguyễn Văn Thích đã
bày tỏ quan niệm về trung và hiếu của ngài trong
bài viết ngắn và bài thơ sau đây :
Trung và Hiếu
« Có kẻ
không hiểu nói rằng theo
đạo Chúa, bỏ cha mẹ, nên làm lời giải
hoặc.
Trung hiếu bổn vô nhị tri –
Trung
ư quân, tức hiếu ư thân ». Trung hiếu
không
phải hai đàng nghịch nhau. Trung với Chúa ấy là
hiếu với cha mẹ. Đây chưa nói chữ hiếu
theo nghĩa Evang (Phúc âm) »
« Hết trung thờ
Chúa đạo làm
trai,
Chữ hiếu làm con dễ
dám sai.
Vẫn hiếu với trung là vốn
một,
Mà trung cùng hiếu
chẳng toàn hai.
Thà rằng mất hiếu trung
cùng Chúa,
Hễ đã không trung,
hiếu với
ai ?
Chữ hiếu ấy tình, trung ấy
nghĩa,
Bên trung bên hiếu nặng
hai vai.
An
Ninh chủng viện 1917
J.M.T
(Trích
trong « Sảng Đình Thi Tập », tr.9) 9
Ngày
19-6-1988, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã
hân hoan mầng 117 vị chân phúc của Việt Nam
đã
được phong bậc hiển thánh trong đó có
rất nhiều tấm gương hiếu đễ trung
tín đã được chứng minh trong cuộc
đời của các Ngài kể cả những lúc
trước giờ bị rơi đầu vì đức tin.
Người Công Giáo cũng có truyền thống
tưởng nhớ đến cha mẹ và thân nhân đã
khuất bằng cách dành tháng 11 (Novembre) để cầu
nguyện, xin lễ, viếng mộ cách đặc biệt
cho người chết gọi là Tháng Các Đẳng Linh
Hồn, và ngày 2 tháng 11 là Ngày Lễ
Các Đẳng (Fête Des
Défunts), tất cả những việc đó đều có ý
nghĩa khuyến khích tinh thần hiếu thảo của
con cái đối với cha mẹ.
Trong
Thư Mục
Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
đưa ra tại Hà Nội ngày 11-10-2002, phần mở
đầu đã có đề cập đến chữ
hiếu trong gia đình người Công Giáo Việt Nam:
«Nói đến gia đình Việt
Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp
gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin.
Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên
rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc
Âm, trong đó
điều răn phải thảo kính cha mẹ
được xếp ngay sau ba điều răn quy
định việc thờ phượng Thiên Chúa. »
2.- Phật giáo
và chữ hiếu :
Phật giáo là
một trong những tôn giáo lớn tại Việt Nam mà
ảnh hưởng đã thấy rõ trong các lãnh vực
chính
trị, văn hóa, tư tưởng, xã hội trong
suốt quá trình lịch sử của đất nước.
Có nhiều ý kiến khác nhau nói về thời điểm
Phật giáo du nhập vào Việt Nam.
Theo
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu,
« Phật giáo du nhập vào
nước ta do hai cách : a) Nhờ các vị sư Tàu
sang tránh nạn ở Bắc kỳ, sau khi vua Hán
Linh-Đế mất (189), trong khi nước Tàu có nội
loạn (cuối thế kỷ thứ II và đầu
thế kỷ thứ III) ; b) Nhờ các vị sư
người Thiên-trúc Inde), Khang-cư (Sogdiane),
Nguyệt-thị (Indoscythe) sang ở nước ta, hoặc đi qua
nước ta
để sang Tàu trong thế kỷ thứ III. » 10
Giáo
sư Nguyễn Đăng Thục cho
rằng : « Bước
đầu lịch sử Phật học ở An nam
chỉ bắt đầu từ thế kỷ III sau Công
nguyên nhất là nếu chúng ta không kể
sách Mâu Tử
như là một tác phẩm chân thật của thời
kỳ 190-200 ».11
Trong Việt Nam Phật Giáo
Sử
Luận, tác giả Nguyễn Lang cho
rằng « đạo
Phật đầu tiên do các thương gia Ấn
Độ đem đến. Những người này không
phải là những nhà truyền giáo ; họ chỉ
sống đời sống tín ngưỡng của họ
trong lúc lưu lại Giao Châu, và chính
vì vậy mà
người Giao Châu biết
đến đạo Phật. » 12
Trải
qua quá trình lịch sử, Phật Giáo
đã có những giai đoạn thăng trầm nhưng
tinh thần từ bi hỉ xã của Phật Giáo vẫn là
những nét trỗi bật trong nỗ lực hòa
đồng với các tôn giáo khác và nhất
là thể
hiện truyền thống đạo hiếu trong các
lễ nghi và bản sắc văn hóa của mình. Mùa Vu
lan
của Phật giáo là mùa báo hiếu và
trong thời kỳ
quân chủ trước đây có khi công cuộc tổ
chức các lễ lạc được tiến hành từ
trong chốn triều đình ra ngoài dân gian.
« Mùa hạ năm 1434 vua Lê
Thái Tông
sai các quan rước Phật từ chùa Pháp Vân về
kinh
đô để làm lễ cầu mưa. Lại cho phóng
thích một số tù nhân, và dựng trai
đàn chẩn
tế ngay ở điện Cần Chánh để tu
tạo công đức, cầu cho có mưa. Rằm tháng
bảy năm ấy, vua lại cho tổ chức
đại hội Vu Lan, mời chư tăng đến
cầu nguyện, rồi cúng
dường chư tăng và phóng thích thêm năm mươi
tù nhân nữa. » 13
Với
Phật giáo, Vu-Lan-Bồn là một
phương pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Theo
hòa thượng Thích Thiện Hoa, « Vu-Lan-Bồn
là phiên âm theo tiếng Phạn.
Người Trung Hoa dịch là : « giải
đảo huyền », nghĩa đen là cổi trói
người bị treo ngược ; nghĩa bóng là
cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề
như đang bị treo ngược...Ngài
Đại-hiếu Mục-Kiền-Liên, sau khi tu hành
chứng được 6 phép thần-thông, ngậm ngùi
nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài bèn tìm
cách báo
đáp. Dùng đạo-nhãn xem trong thế gian, Ngài
nhận
thấy mẹ mình sanh làm loài ngạ-quỷ, thân thể
ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều
tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như
ống chỉ, đói khát suốt năm không
được ăn uống. Thương xót quá, Ngài
liền đem bát cơm đang ăn để dâng mẹ.
Ngài vận thần-thông, bưng bát cơm đi đến
chỗ mẹ ở. Bà mẹ vì quá khao-khát, nên
khi
được cơm, lòng tham nổi lên, sợ
người cướp giựt, lấy tay trái che giấu
bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam
độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên
cơm mới đưa vào miệng, thì hóa thành ra
lửa,
bà chẳng ăn được.
Ngài
Mục-Kiền-Liên thấy thế, hết sức đau
buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về
bạch Phật, thuật lại như trên và cầu
Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu
độ thân mẫu... Ngài Mục-Kiền-Liên vâng lời
Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ
Vu-Lan, sắm đủ các vật liệu, rước
chư Tăng trong mười phương thành tâm kính
lễ trai-Tăng cúng-dường, nên vong mẫu của
Ngài thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, sanh về cảnh
giới lành. » 14
Cũng
theo hòa thượng Thích Thiện Hoa
việc báo hiếu có nhiều cách nhưng không
ngoài hai
phương diện : vật chất và tinh thần
tức là lo cho cha mẹ miếng ăn thức uống, áo
quần, chỗ ở và làm cho tinh thần cha mẹ được
nhẹ nhàng cao thượng và đi dần đến
chỗ giải thoát.
Câu
chuyện Quan Âm Thị Kính nói việc Thị
Kính bị mang tiếng oan có âm mưu giết chồng
(Thiện Sĩ), chịu sỉ nhục tàn tệ phải
cải dạng nam nhi mà đi tu, lại bị Thị
Mầu quyến rũ không được, phải nhận
nuôi con rơi của Thị Mầu, rồi sau đó
chết vì sức khỏe mõi mòn,
cuối cùng nàng được Phật tổ
truyền cho thành Phật Quan Âm và được sư
cụ chùa Vân (nơi nàng đi tu) bày tỏ
công
đức :
« Nay bà Thị
Kính hóa duyên
Nam mô
Phật, độ vô biên hằng hà
hóa thân
được cả mẹ cha,
kìa là
bạn cũ, nọ là con thơ
thế gian
trông thấy sờ sờ »
« Ý
của sư cụ là khi Thị Kính chứng quả,
nàng có thể độ luôn được cả mẹ
cha, Thiện Sĩ, đứa con thơ và vô biên hằng hà
sa số người khác. Như vậy nghĩa là tu theo
đạo Phật cũng có thể đền đáp công
ơn cha mẹ và giúp đời cứu người,
chữ hiếu, chữ nhân trọn vẹn,
và
đạo Phật không trái chống với nguyên tắc của
Nho giáo. » 15
Theo
tác giả Nguyễn Lang, sự tích Quan Âm Nam
Hải đã được Việt hóa một cách hoàn
toàn.
Đức Quan Âm này, tuy là công chúa thứ
ba con vua Diệu
Trang ở nước Hưng Lâm ( ?) nhưng đã
đi tu tại núi Hươ ng Tích ở Việt Nam và
thành
Phật tại đây. Truyện do một vị tăng
đời Nguyên sáng tác. Công chúa thứ ba tên Diệu Thiện không muốn
lấy chồng mà quyết chí đi tu. Nàng bị vua cha
tìm
mọi cách cản trở, hành hạ, ra lịnh xử chém,
nhưng được một mãnh hổ cứu thoát. Nàng
có dịp xuống địa ngục chứng kiến
mọi cảnh khổ, vâng lời Phật dạy về tu
tại núi Hương Tích, dùng một tay và một mắt
của mình trị bệnh nan y cho vua cha, thuyết phục
được cha mẹ bỏ ác làm lành rồi cả nhà
cùng tu hành tại chùa Hương Tích. Hai
nàng công chúa (chị
của nàng) Diệu Thanh và Diệu Âm trở thành
Văn Thù
Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát.
Chân như
đạo Phật rất mầu
Tâm trung
chữ hiếu, niệm
đầu chữ nhân
Hiếu là độ
được đấng thân
Nhân là cứu vớt trầm
luân mọi loài.
Cũng như
truyện Quan Âm Thị Kính, truyện Nam Hải Quan Âm
chủ trương rằng tu theo đạo Phật
vẫn có thể làm tròn chữ hiếu và thực hiện
chữ nhân. 16
Ngoài ra, một tôn
giáo khác ở Việt Nam, Phật Giáo Tứ Ân cũng
đề cao lòng hiếu thảo đối với cha
mẹ ngay trong nền tảng giáo lý của mình (ơn cha
mẹ,
ơn đất nước...).
3.- Khổng
học bàn về chữ hiếu.
Kinh Thi của Trung
hoa cũng coi như ca dao, tục ngữ của Việt
Nam là một
bộ môn văn chương bình dân tối cổ, cũng
có những câu nói về công ơn cha mẹ rất cảm
động :
« Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc
ngã,
Ai ai phụ mẫu, sinh ngã
cù lao,
Dục báo thâm ân,
hiệu thiên võng
cực ».
Nghĩa là : cha
sinh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sinh ta cực
nhọc. Muốn đền đáp âm đức của cha
mẹ, như vói lên trời cao chẳng cùng.
Khổng tử
quan niệm chữ hiếu
ở một mức độ rất cao. Trong sách Trung dung,
Khổng tử có nói
rằng : « Kính kỳ
sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự
sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí giaõ »
(nghĩa là : kính
những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu
những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha
mẹ lúc chết rồi cũng như lúc hãy còn, ấy
là
hiếu đến rất mực vậy). Là một
bậc thầy uyên bác, Khổng tử có nhiều lối
trả lời khác nhau khi được hỏi về
chữ hiếu với các đệ tử. Mạnh Ý-tử ( quan đại
phu nước
Lỗ, họ Trọng tôn, tên là Hà-Kỵ) hỏi thờ
đấng thân thế nào gọi là hiếu. Đức
Khổng nói rằng : « Thờ đấng thân mà
không
ngang trái là hiếu. » Thày Phàn
trì ngự xe cho đức
Khổng, đức Khổng bảo cho rằng :
« Họ Mạnh-tôn hỏi ta điều hiếu, ta
thưa rằng : « Không ngang
trái ». Thày Phàn trì
hỏi rằng : « Lời ấy là ý bảo thế
nào ? » Đức Khổng nói rằng :
« Ta
nói không ngang trái là không ngang
trái với lẽ phải.
Người con thờ đấng thân, khi đấng thân
còn thì phụng dưỡng cho phải lễ ; khi
đấng thân mất thì tống táng cho phải
lễ ; khi tế đấng thân thì tế cho phải
lễ »
Mạnh Vũ-Bá (con Mạnh
Ý-tử, tên là
Trệ) hỏi điều hiếu. Đức Khổng nói
rằng : « Cha mẹ
chỉ chăm lo về tật bệnh
người con ».
Thầy
Tử-Du (học trò Đức Khổng, họ Ngôn, tên
Yển) hỏi điều hiếu. Đức Khổng nói
rằng : « Đời nay chỉ bảo rằng nuôi
được cha mẹ là hiếu. Nhưng suy đến
loài hèn như khuyển mã, cũng còn nuôi
nó cả. Nếu nuôi
cha mẹ mà chẳng kính, thì có khác
gì đâu !. »
Tử-Hạ (học trò của đức
Khổng, họ là Bốc, tên là Thương) hỏi
điều hiếu. Đức Khổng nói rằng :
« Khi thờ cha mẹ, khó nhất là nét mặt
hòa vui.
Nếu kẻ đệ tử chỉ biết phục
dịch làm thay việc khó nhọc cho phụ huynh, và
có
rượu cơm mời ngài xơi, những điều
ấy có kể là hiếu đâu »17.
Trong lần khác, Khổng tử nói
quan
hệ của con cái đối với cha mẹ cũng
thể hiện trong cuộc sống, cách sống. Khi cha
mẹ còn, không bao giờ làm điều gì đề cho cha
mẹ lo buồn, bởi vậy không nên đi đâu xa, có
đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ đi
để cha mẹ khỏi lo, và nhỡ có việc gì, có
thể tìm gọi được: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất
hữu phương” (Luận ngữ: Lý nhân, IV). Những
điều mà cụ Trần Trọng Kim vừa diễn
đạt đó cũng còn có ít nhiều giá trị
cho
đến bây giờ. Trong Nho
giáo, học giả họ Trần nói thêm: “ Lấy
lễ mà thờ cha mẹ không phải là cha mẹ làm
điều gì trái đạo cũng theo. Khổng-tử
nói: “Sự phụ mẫu
cơ gián, kiến chí bất tòng, hựu kính bất
vi, lao
nhi bất oán. (thờ cha mẹ thì khi cha mẹ có
làm
điều gì lầm lỗi, con phải tìm cách
êm-đềm dịu-dàng mà can-ngăn, thấy cha mẹ
không nghe, thì lại kính mà không
trái lễ, dẫu có phải
điều đau đớn khó nhọc cũng không oán
giận”. (Luận ngữ, Lý
nhân, IV). 18
Ảnh
hưởng của việc làm, tâm tính của bậc cha
mẹ cũng tác động nhiều trên con cái. Khổng
tử có dạy: “Phụ
tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành, tam niên
vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu
hỹ” : cha còn thì phải xem cái chí của
cha, cha mất
rồi phải xem việc làm của cha, ba năm không
đổi cái đạo của cha, khả gọi là
hiếu vậy. (Luận
ngữ, Học nhi, I) 19.
Nhưng
đối với Đức Khổng, tinh thần trung dung
luôn luôn được sử dụng như là một thái
độ cần thiết trong cuộc sống con
người. Một hôm Diệp-công bảo Khổng tử
rằng: “Ngô đảng hữu trực cung giả,
kỳ phụ nhương dương, nhi tử chứng
chi” (xóm chúng tôi có người cứ lấy
cái thẳng
mà khiến mình: cha đi ăn trộm dê, mà con đi
làm
chứng). Ngài nói rằng: “Ngô
đảng chi trực
giả dị ư thị, phụ vi tử ẩn, tử
vi phụ ẩn, trực tại kỳ trung hỹ”
(người thẳng xóm chúng tôi thì khác
thế: cha che
chở cho con, con che chở cho cha, cái trực ở trong
đó vậy.- Luận ngữ, Tử Lộ, XIII) 20.
Đức Khổng rất đề
cao chữ hiếu vì đó là căn bản ứng xử
của con người, từ đó mà việc thảo kính
của con cái đối với cha mẹ đã
được xem như là một đạo hiếu
(hiếu đạo) và những tư duy về nguyên
tắc căn bản trong sự đối đãi giữa
con cái đối với cha mẹ có thể tìm thấy trong
Hiếu kinh của họ
Khổng. Mạnh tử cũng có nói : “Bất hiếu hữu
tam vô hậu vi đại.”
nghĩa là trong ba điều bất hiếu thì việc
không có con nối dõi là điều bất hiếu to
nhất.
Thầy
Tử Lộ là một tấm gương chí hiếu
đối với cha mẹ. Thuở mẹ ông còn sinh
tiền, ông phải đi đội gạo thuê đàng xa
để lấy tiền nuôi mẹ. Đến khi ông thành
công ở đời, xe ngựa rập rình, áo mũ xênh xang
làm quan cao chức trọng thì cha mẹ ông đã
qua
đời hết. Ông buồn bã than rằng:
“Mộc
dục tịnh nhi phong bất đình!
Tử
dục dưỡng nhi thân bất tại”.
Nghĩa là cây muốn lặng mà
gió
chẳng ngừng ! Con muốn nuôi báo hiếu mà cha mẹ
chẳng còn sống. Thương thay nỗi lòng của
thầy Tử Lộ cũng là nỗi đau khổ chung
của những người con có hiếu!
Trong tác phẩm Trung Quốc
Triết Học Sử, bác sĩ
Hồ Thích cho rằng Khổng tử nói về hiếu
đạo chưa đầy đủ bằng Tăng
tử . Tăng tử nói: “Hiếu
hữu tam: đại hiếu tôn thân, kỳ thứ
phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”, nghĩa
là: Hiếu có ba điều: đại hiếu phải tôn
thân, sau nữa không làm điếm nhục, sau
nữa mới nuôi dưõng.
Theo Hồ Thích, tôn thân là tôn cao
cái nhân cách của mình, tôn cao
cái nhân cách của cha mẹ mình, không
hủy hoại thân
thể mình; không làm điếm nhục đến cái
nhân
cách mà cha mẹ đã truyền cho ta và sau hết
là nuôi
dưỡng cha mẹ.21
Nói
chung
học thuyết Khổng Mạnh chú trọng đến
chữ hiếu, đề cao chữ hiếu cho nên
những lời Khổng tử nói với Tăng tử
về chữ hiếu gồm thành một quyển sách
gọi là Hiếu kinh, các
nguyên tắc ứng dụng cho tròn chữ hiếu, các nghi
thức thực hành hiếu đễ gọi là hiếu
đạo đã ảnh hưởng rất sâu xa trong
một số xã hội Á đông trong đó có Việt
Nam
từ xưa cho đến nay.
III.- CHỮ HIẾU TRONG NỀN VĂN
HỌC VIỆT NAM.
1.-
Các
chứng liệu chữ hiếu trong văn chương
bình dân và bác học.
Dân
tộc Việt Nam vốn là dân tộc hiếu đễ,
tôn trọng luân thường đạo lý, kính trọng
tổ tiên, ông bà, cha mẹ nên trong các
hình thức văn
chương bình dân như ca dao, tục ngữ những
vấn đề đạo đức, luân lý cũng
được nói đến với tất cả sự
đề cao, trân trọng:
Công cha
như núi Thái sơn
Nghĩa
mẹ như
nước trong nguồn chảy ra
Một lòng
thờ mẹ kính cha,
Cho tròn
chữ hiếu mới là đạo con
hoặc: Lên
non mới biết non cao,
Nuôi
con mới biết công lao
mẫu từ.
hay là so sánh: Mẹ
nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi mẹ con kể
từng ngày.
Công ơn cha mẹ thể hiện
từ khi sinh ra, thời gian đi học cho đến
tuổi trưởng thành: Con
học, thóc vay.- Gia cảnh dù túng thiếu, cha mẹ
vẫn chạy vạy chỗ này chỗ nọ để
có phương tiện nuôi cho con đi học. Con
đóng khố, bố cởi
truồng.- Sự hy sinh
về vật chất để cho con cái đầy
đủ. Con lên ba cả nhà
học nói.- Niềm vui và sự cộng tác của
mọi người để dạy con. Cá không ăn muối
cá ươn, con cưỡng cha
mẹ trăm đường con hư.- Kinh nghiệm
khôn ngoan học hỏi ở cha mẹ để tránh
được thất bại mà đạt đến
thành công. Cơm cha áo mẹ
ăn chơi, Cất lấy cơm người đổ
bát mồ hôi.- Thừa hưởng công sức của cha
mẹ một cách vô tình trong khi gặp cảnh khó
khăn,
cô đơn lẻ loi thì phải làm cật lực mới
có cái ăn. Còn cha ăn cơm
với cá, còn mẹ liếm lá ngoài cửa.-
Nói về
khả năng nuôi con cái của cha hay mẹ. Con
có cha như nhà có nóc.- Nói
về sự vững vàng khi con còn có cha. Bên
ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.- Sự
hy sinh chẳng quản đến thân mình của
người mẹ.
Con ơi
mẹ bảo đây này
Học buôn
học bán cho tày người ta,
Con
đừng học thói chua ngoa
Bạn bè
khinh dễ, người ta chê cười.
Ca dao khuyên răn:
Đói lòng ăn đọt chà là
Để
cơm nuôi mẹ,
mẹ già yếu răng.
Kho tàng tục ngữ ca dao của dân
tộc còn có rất nhiều câu nói phản ảnh tinh
thần hiếu đạo và mối liên hệ giáo huấn
của cha mẹ đối với con cái. Những câu
nồng nàn lòng yêu thương và niềm cảm mến
nuối tiếc của con cái đối với bậc cha
mẹ khi những người thân này đã khuất bóng: Chiều
chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ
ruột đau chín chìu
Cốt lõi của hiếu đạo
là:
Thờ cha mẹ ở hết
lòng
Ấy
là chữ hiếu dạy
trong luân thường.
Chữ
đễ nghĩa là
nhường,
Nhường
anh , nhường
chị lại nhường người trên.
Ghi
lòng tạc dạ chớ quên,
Con
em phải giữ lấy
nền con em.
Đối với các bậc trí
thức khoa bảng Việt Nam trước đây, việc
trứ thuật các tác phẩm nhắm mục đích giáo
dục tinh thần hiếu đễ cho con em
được xem như là một trong những chủ đích
của mình. Các tác phẩm văn học nổi tiếng
như Đoạn
trường tân thanh của Nguyễn Du, Lục Vân
Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu cũng được xây
dựng trên chủ đề chữ hiếu. Sau đây
là điển hình một số
tác giả có tác phẩm viết về vấn đề
chữ hiếu, đạo hiếu.
Nguyễn
Trãi là một bậc khai quốc công thần của nhà
Hậu Lê. Ông sinh năm 1380, quán làng Nhị
Khê, huyện
Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông, con trai Nguyễn Ứng Long tức Nguyễn Phi
Khanh, đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 21
tuổi,ra giúp Lê Lợi khoảng năm 1421, giữ các
việc tham mưu và viết các thư từ trọng
đại cho lê Lợi trong việc xử trí với quân
Minh. Khi Lê Lợi lên ngôi, ông được phong tước
Quan Phục hầu, làm Nhập Nội Hành Khiển
dưới thời Lê Thái Tông. Sau ông bị gặp phải
vụ án Nguyễn Thị Lộ mà bị tru di tam tộc
năm 1442. Tác phẩm ông để lại có rất
nhiều loại viết bằng chữ Hán gồm Quân trung
từ mệnh tập, Dư địa chí, Ức trai thi
tập, Văn loại trong số đó có tập “Gia
huấn ca (bài hát dạy
người nhà) vẫn truyền là của ông soạn ra,
nhưng không được chắc lắm.
a) Tập này
có sáu bài ca: 1. Dạy
vợ con; 2. Dạy con ở cho có đức; 3. Dạy con
gái; Vợ khuyên chồng; 5. Dạy học trò ở cho
có
đạo; 6. Khuyên học trò phải chăm họ.
b)
Các bài
ca viết theo thể lục bát, nhiều khi đặt xen
những câu bảy chữ.
c)
Chủ ý tác giả là đem các
điều cốt yếu, trong luân thường diễn ra
lời nôm cho đàn bà trẻ con đọc.
d) Lời
văn bình-thường, giản-dị, lưu-loát êm-ái.
Nếu tập ấy thật của Nguyễn-Trãi soạn
ra, thì văn nôm của ta về đầu thế-kỷ
thứ XV cũng không khác nay mấy, chỉ
thỉnh-thoảng có một vài chữ nay ít dùng.”22
Đặt ra ngoài tính cách
nghi ngờ
về tác giả sách Gia huấn ca, chúng ta cũng nhận
chân được ý thức về giá trị của tinh
thần hiếu đạo mà người xưa
thường quan niệm.
Một
danh sĩ thời Nguyễn, Lý Văn Phức (1785-1849)
người làng Hồ khẩu, huyện Vĩnh thuận,
tỉnh Hà đông, làm quan trải ba triều Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều lần đi
sứ các nước lân cận, đã sáng tác
nhiều sách
vở bằng Hán văn như
Việt hành ngâm, Việt hành tục ngâm,
trong số
đó có tập Nhị thập tứ hiếu
nói về 24 người con có hiếu ở bên Tàu. “Lý Văn Phức là một nhà luân
lý muốn đem các điều luân thường
đạo lý để khuyên răn người
đời. Tác phẩm “Nhị thập tứ hiếu” (416
câu thơ song thất lục bát) đã thành một cuốn
gia-huấn ca được phổ cập rộng rãi trong
dân chúng.”23
Mới đây,
tác
phẩm Nhân Thế Tu Tri
do
Cao Xuân Dục (1842-1923), Phó tổng tài Quốc sử
quán
triều Thành Thái biên soạn bằng Hán văn theo
lời
đề nghị của Diên Lộc Quận Công Nguyễn
Thân năm 1899 và in năm Thành Thái thứ 14
(1902), bản
dịch do Nhà xuất bản Văn học ấn hành
năm 2001 với nhan đề Người
Đời Nên Biết. “Chủ
đề của tác phẩm là làm sáng tỏ luân
thường nhân sinh, việc học làm người, phép
lập thân xử thế. Sách tập trung vào những
điều thiết yếu có quan hệ đến
nhật dụng nhân sinh thông qua các lời đã
chép,
việc đã làm rút trong
Kinh, Sử, Tử, Tập...”
Những lời châm ngôn, những tấm gương
hiếu đễ, những lời khuyến thiện
trừng ác của Trung Hoa, của Việt Nam, những
việc làm tốt đẹp của các danh nhân liệt
nữ đều được biên tập lại trong
sách này có thể coi đây là một hệ
thống quy
phạm đạo đức chính thống triều
Nguyễn 24.
Một vị linh mục Công giáo
mà công
trình kiến trúc nhà thờ Phát Diệm của
ông đã nêu
phương danh lại cho hậu thế đó
là linh mục Trần
Lục hay còn gọi là Cha Sáu hoặc Père Six
vốn là Khâm
sai đại thần dưới triều vua Tự
Đức cũng đã để lại một công trình
trứ tác văn chương nổi tiếng về
vấn đề giáo dục chữ hiếu. Linh mục
Trần Lục nguyên quán làng Mỹ Quan, tổng Cao Vĩnh,
huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh năm 1825, đi tu
năm 1845 tại chủng viện Vĩnh Trị, năm
1860 thụ phong linh mục, từng làm Gia lễ bộ Tham
tri, Khâm sai Tuyên phủ sứ của vua Đồng Khánh,
Lễ bộ Thượng thư của vua Thành Thái. Ngài
mất năm 1899. Tác phẩm của linh mục Trần
Lục Sách thuật lại ít
nhiều ca vè gồm có ba tác phẩm có
tên Hiếu tự ca (1088 câu), Nữ
tắc thường
lễ (1016 câu), Nịch ái
vong ân (440 câu).
“Hiếu
tự ca nói về chữ hiếu của
người Việt Nam, đối với cha mẹ và
tổ tiên. Tất cả là người đã sinh ra
đều mang nợ với tổ tiên và cần báo
đền.
Mấy lời hiếu tự nói
qua,
Để
cho ai nấy trẻ
già nhớ ơn.
Làm
người sống ở
thế gian,
Ai
không đội đức cao
san nặng dày.” 25
“Nữ tắc thường lễ là
bài chỉ dẫn những nguyên tắc,
những điều thông thường cho thanh thiếu
nữ cần biết trở thành người lương
thiện và giáo dân đạo hạnh. Cụ Sáu đưa
ra tám điều trong sinh hoạt hằng ngày của
người con gái để sống: thảo kính cha
mẹ, lo liệu công việc nhà, giao tiếp xã hội
bên
ngoài, dáng điệu đi đứng, cử chỉ khi
ngồi, lời ăn tiếng nói, cách thức trang phục
và trau dồi nghề nghiệp. Tất cả dựa theo
đạo tam tòng: phụ phu tử và tứ đức:
công dung ngôn hạnh.
Sinh mà không
dạy khác gì,
Như loài
mục súc ngu si quê mùa.
Dạy con
thì dạy đầu sơ,
Đang khi
còn bé dạy thì dễ in.
Lòng như
giấy trắng nguyên tuyền,
Ta mà
muốn vẽ đỏ đen khó gì.
Nữ nhi
bay cũng phải suy,
Cá không
ăn muối ắt thì cá ươn.” 26
“Nịch ái vong ân là
bài học dành cho thanh niên. Đến tuổi trưởng
thành lập nghiệp có gia đình, người thanh
niên nên
biết khéo sống với vợ, và khôn với cha mẹ
hai bên. Muốn có người vợ ăn kiếp ở
đời với mình phải lựa chọn, đắn
đo, bàn tính trước sau, không vội vàng bừa
bãi mà
ân hận suốt đời.
Dạy con
từ thuở lên ba.
Dạy
vợ khi mới về nhà làm dâu. (17-18)
Cả vợ chồng việc làm
đầu tiên là thảo kính tứ thân phụ mẫu
tùy
khả năng.
Tứ thân
cha mẹ bình an,
Đi
thăm về viếng hỉ hoan tươi cười.
Canh riêu
miếng lạt miếng tươi,
Liệu
chừng thay đổi cho người bổ lao.
Lúc
người yếu đuối liệt lào,
Trông nom
chớ để giờ nào qua không.” 27
Tóm lại, tác phẩm chủ yếu
vẫn là Hiếu Tự Ca là
tập thơ “diễn tả những tâm tình, những
sự kiện liên quan đến lòng hiếu thảo
xảy ra hằng ngày trước mắt đại chúng.
Chữ Hiếu trong Khổng học, chữ Hiếu trong
Thiên chúa giáo, và chữ Hiếu trong niềm tin
phổ thông
nơi đại chúng, trước ba lựa chọn
ấy, Cha Sáu và dân con vùng Phát
Diệm, qua Hiếu Tự,
đã chấp nhận lựa chọn thứ ba, chỉ vì
lựa chọn ấy sẽ cung ứng nhiều
phương án hợp cảnh, hợp tình hơn.” 28
2.- Một vài mẫu chuyện liên
quan tới chữ hiếu:
Vua Lê Thánh Tôn hiếu với
mẹ.
Vua Lê Thánh Tôn là
một vị minh quân
trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ 1460
đến 1497. Dưới thời của ngài, đất
nước phát triển về kinh tế, văn học,
cương thổ, quân sự. Ngài cũng là người
con rất có hiếu. Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại rằng : “
Trước đây, hồi tháng
2, Hoàng thái hậu đi lễ lăng về, không may bị
bệnh nặng, đến giờ Hợi, ngày 26 tháng
nhuận, băng ở chính tẩm điện Thừa Hoa,
thọ 76 tuổi. Khi Hoàng thái hậu chưa băng, mùa
đông, vua cùng Hoàng thái tử ngày
đêm chăm sóc, không lúc
nào rời bên cạnh. Khi dâng thuốc thang hay đồ
ăn uống, vua nhất định tự mình nếm
trước; trong thì kêu với tổ tiên, ngoài
thì dốc
lòng cầu khẩn, không thần nào là không
khấn.
Đến khi hấp hối cũng tự kêu gào, Thái
hậu còn nhếch mép một chút, muốn nói để
từ giã. Mọi việc mặc áo, khâm liệm, bỏ
gạo vào miệng người chết, vua đều
tự làm lấy cả để tỏ lòng đau xót.”29
Trịnh
Kiểm với chuyện ăn cắp gà.
Cho đến nay, cuộc đời
của nhũng danh nhân lịch sử thường
được tô điểm bằng những câu chuyện
gọi là giai thoại Trịnh Kiểm là người làng
Sóc sơn, huyện Vĩnh lại tỉnh Thanh hóa, có
công
trong việc trung hưng nhà Lê vào những năm giữa
thế kỷ 16. Tương truyền thuở nhỏ
Kiểm đã có lần ăn cắp con gà mái của
hàng xóm
làm thịt cho mẹ ông ăn vì ông vốn rất
có
hiếu với mẹ nhưng nhà lại quá nghèo. Hàng
xóm
biết được bắt mẹ ông thả xuống
giếng cho chết. Câu chuyện thực hư như
thế nào không biết nhưng cũng là yếu tố góp
công xây dựng một chút huyền sử cho vị thái
sư họ Trịnh này.
Chuyện
người giết
cọp xứ Quảng.
Nguyễn Văn Danh, người Bình
Sơn, Quảng Ngãi, lúc đầu thi đỗ tú tái. Cha
đi thăm nương bị hổ vồ mang đi. Danh
đem người nhà đi tìm thây cha, thấy vết
hổ có một dấu chân nhỏ, bèn đo và ghi lại.
Sau đó đặt bẫy, ngày đêm chỉ lo việc
bắt hổ. Sau bắt được một con hổ
chân sau hơi nhỏ, so với kích thước đo thì
khớp, lập tức giết hổ lấy tim gan tế
trước mộ cha, ăn sống đến hết.
Nhân đó mắc bệnh, mỗi khi nói chuyện với
người, tiếng rống như hổ. Thiệu
Trị năm thứ sáu, được biểu
dương. 30
Lòng hiếu
thảo của vua
Tự Đức.
Vua Tự Đức (1847-1883) vốn là
người rất có hiếu với mẹ. Mẹ ngài là
bà Phạm Thị Hằng tức Đức bà Từ
Dũ, con của ông Phạm Đăng Hưng là một
vị khai quốc công thần thời Gia Long. Vua Tự
Đức thường dành những ngày không thiết
triều để viếng thăm mẹ và những
điều mẹ ngài dạy ngài đều ghi vào một
cuốn sổ gọi là Từ
Huấn Lục. Sau đây là một câu chuyện nói
về lòng hiếu thảo của nhà vua.
Một hôm vua Tự Đức đi
săn ở rừng Thuận trực ở phía
thượng nguồn sông Lợi Nông, cách kinh thành
Huế
khoảng 15 cây số. Gặp lúc trời mưa lụt nên
nhà vua không về được mà chỉ còn hai
ngày nữa
là ngày kỵ của vua cha là Thiệu Trị. Bà Từ
Dũ bèn sai Nguyễn Tri Phương đi tìm đón
rước về. Dọc đường hai bên gặp
nhau nhưng vì nước sông
chảy mạnh quá nên thuyền không thể đi nhanh
được mà tối đến mới về tới
kinh thành. Vua Tự Đức vội vã bất chấp
trời mưa đến trình diện mẹ mình xin
chịu tội. Bà Từ Dũ ngồi quay mặt vào trong,
im lặng không nói gì. Vua Tự Đức bèn lấy một
cây roi mây dâng lên mẹ và đặt nơi
trường
kỷ rồi lặng lẽ nằm xuống khẩn
khoản xin chịu tội. Bà mẹ bấy giờ mới
quay lại lấy tay hất cây roi mây rồi nói: “Thôi tha cho, đi chơi
để cho quan quân cực khổ thì phải ban
thưởng cho người ta.” 31
Câu
chuyện hoàng tử Lý Long
Tường.
Câu chuyện sau đây có
tính cách
thời sự và đặc biệt nối kết con
người hiện tại với quá khứ cách đây
hơn tám trăm năm.
Năm 1225, do âm mưu sắp
đặt của Trần Thủ Độ, ngai vàng họ
Lý bị chuyển sang tay họ Trần do việc Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Trần Thủ Độ tiến hành việc tận
diệt dòng dõi nhà Lý, giết vua Lý
Chiêu Tông, cùng sát hại
toàn bộ tôn thất nhà Lý. Hoàng tử thứ
hai là Lý Long
Tường, con vua Lý Anh tông (1136-1175) và là
em của Lý Long
Trát (tức Lý Cao Tông 1175-1210) biết rõ nếu
chần
chừ trước sau cũng bị hại về tay
Trần Thủ Độ. “Lý
Long Tường đau xót trước sự sụp
đổ của vương triều Lý và lo lắng tông
miếu bị hủy bỏ, không ai thờ cúng tổ tiên.
Năm 1226, ông đem theo đồ thờ của tổ
tông, chạy về phía đông dùng thuyền vượt
biển ra nước ngoài...thuyền của ông cuối
cùng đã vượt qua biển cả mênh mông, đến
sông Phú Lương huyện Bồn Tân phía tây
nước Cao
Ly và ông đã cư trú tại Trấn Sơn phía
nam phủ thành.” 32.
Vua phát hiện ra hoàng tử An nam
bèn cấp đất lập cho thái ấp tên Hoa Sơn.
Tại đây hoàng tử Lý Long Tường đã góp
sức đánh bại quân Nguyên bằng sức mạnh và
mưu trí trong rất nhiều trận chiến khiến cho
vua Cao ly rất cảm phục. Dù xa quê nhưng
Lý Long Tường vẫn luôn nhớ
về quê cũ nên được vua Cao ly xây cho Vọng
quốc đàn trên đỉnh Hoa Sơn để ngày ngày
ông lên đó hướng về phía nam mà lắng
lòng trầm
tư. Vua Cao Ly ban quan
tước, cấp thêm 30 dăïm vuông đất và nhân
khẩu 20 hộ cho ông làm thái ấp để thờ cúng
tổ tiên.
Sau chiến tranh, Hoàng tử Lý
Long
Tường mở trường dạy học, dựng
đài bình văn, lập đền thờ các bậc thánh
hiền, học trò có nhiều người đỗ
đạt. Con cháu ông dần dà sinh sôi nảy nở
trên
đất CHDCND Triều Tiên và ở Hàn Quốc, riêng ở
đây có khoảng 200 hộ với trên 600 người. Gia
phả của dòng họ gọi là Hoa Sơn Lý thị
tộc phổ ghi chép
được 32 đời
kể từ đời vua Lý Thái tổ (Lý Công
Uẩn). Các di tích của dòng họ Lý tại
Hàn Quốc cho
đến nay vẫn được gìn giữ cẩn thận
chẳng hạn như
ngôi mộ của Lý Long Tường dưới chân núi Di
Ất phía tây phủ thành Bồn Tân 10 dặm, di
tích Thụ hàng môn và tấm
bia Thụ hàng môn kỷ tích bi, di
tích thành lũy và dinh quán cũa Hoa Sơn
Quân. Năm 1994,
một người cháu đời thứ 26 của hoàng
tử Lý Long Tường là Lý Xương Căn đã
từ Hàn Quốc tìm về cố hương là làng
Đình
Bảng thăm viếng và hội ngộ lại với
tổ tiên, dòng tộc theo lời căn dặn của
tiền nhân.
Trong tác phẩm Đường Hy
Vọng biên soạn trong một
hoàn cảnh rất đổi khó khăn của tác giả,
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn
Thuận (1928-2002) có viết : “Gia
đình là một “trung tâm ánh sáng”, đem
ngọn lửa
hồng đốt sáng nóng kẻ khác. Ngày nào
mỗi gia
đình là “một trung tâm ánh sáng”, thế
giới này sẽ là một đại gia đình,
đầy ánh sáng, đầy hy vọng” 33 . Mong
sao chữ hiếu là căn bản của mọi sinh
hoạt gia đình lại cũng chính là yếu tố
giữ cho trung tâm ánh sáng cháy bừng
mãi mãi.
Nguyễn Đức Cung
CHU ÙTHÍCH:
1.-
Dr. L.
Wieger, S.J, Chinese Characters,
Paragon Book Reprint Corp., New York Dover Publications, Inc., New
York, trang
88.
2.-
Nguyễn Đăng Duy, Văn
hóa tâm linh, Nhà xuất bản Hà Nội, 1998,
tr. 167.
3.-
Thiều Chửu, Hán Việt
tự điển, Nhà xuất bản Đại Nam,
trang 137. Đào Duy Anh, Hán
Việt từ điển, Nhà xuất
bản Tràng Thi, Sài Gòn, 1957, trang 361.
4.-
Nhóm
Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh
Thánh Cựu Ứơc và Tân Ước, Huấn
Ca, Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Hồ Chí
Minh, 1998,
trang 1282.
5.-
Nhóm
Phiên Dịch, Sách đã dẫn, tr. 1871.
6.-
Nhóm
Phiên Dịch, Sđd, tr. 2196.
7.- Nguyễn Phương, Cha Đắc-Lộ
với
sự thành lập Giáo Hội Công Giáo Việt Nam,
Tạp
chí Đại Học, năm
thứ tư, 1961, số 1 kỷ niệm giáo sĩ
Đắc Lộ, tr. 71. Phan Phát Huồn, Việt Nam
Giáo Sử, tập I, Cứu Thế
xuất bản, Sài Gòn 1965, bản in lần thứ hai, tr.
35.
8.-
Ngô
Nhân Dụng, bài Thực vi
văn hiến chi bang, Thế
kỷ 21, số 161, September, 2002, tr. 10-11.
9.-
Lê
Ngọc Bích, Nhân Vật Giáo
Phận Huế, Tập I, 2000, tr. 347.
10.-
Dương Quảng Hàm, Việt
Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Giáo Dục, Trung
Tâm Học Liệu Xuất Bản, in lần 10, 1968, tr. 58.
11.-
Nguyễn Đăng Thục, Lịch
Sử Tư Tưởng Việt Nam, Tập II, Nhà
xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 117.
12.-
Nguyễn Lang, Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận, Tập I, Lá Bối xuất
bản, 1973, tr. 39.
13.-
Nguyễn Lang, Việt Nam
Phật Giáo Sử Luận, Tập II, Lá Bối xuất
bản, 1973, tr. 64.
14.-
Hòa
thượng Thích Thiện Hoa, Phật
Học Phổ Thông, quyển I, Thành Hội Phật Giáo
Thành Phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1992, tr. 231.
15.-
Nguyễn Lang, Sđd, tập II, tr. 79. Nguyễn Đăng
Thục, Quan Âm Thị Kính, Lịch
Sử Tư Tưởng Việt Nam,
Tập I, Nhà xuất bảnThành Phố Hố Chí Minh, 1998,
trang 374-391.
16.-
Nguyễn Lang, Sđd, tập II, tr. 83. Nguyễn Đăng
Thục, Sự Tích Phật Bà
Chùa Hương Tích, Lịch
Sử Tư Tưởng Việt Nam, Tập I, Nhà
xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, trang 357-373.
17.-
Nguyễn Hữu-Tiến và Nguyễn Đôn-Phục
dịch Luận Ngữ (Thiên Vi
chính, Chương V-VIII, trích trong Việt
Nam Văn Học Sử Yếu của
Dương Quảng Hàm, Bô Giáo Dục, Trung Tâm Học
Liệu Xuất Bản, bản in lần 10, 1968, tr. 42.
18.-
Trần Trọng Kim, Nho Giáo,
quyển thượng, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học
Liệu Xuất Bản, 1971, tr. 106.
19.-
Trần Trọng Kim, Sđd, tr. 107.
20.-
Trần Trọng Kim, Sđd, tr. 107.
21.-
Hồ Thích, Trung Quốc
Triết Học Sử, bản dịch Huỳnh Minh
Đức, Khai Trí xuất bản, 1970, tr. 261-262.
22.-
Dương Quảng Hàm, Sđd, tr. 270.
23.-
Nguyễn Huyền Anh, Việt
Nam Danh Nhân Từ Điển, Cơ sở xuất
bản Zieleks, tr. 176.
24.-
Tuyển Tập Cao Xuân Dục, Tập 1, Người Đời Nên
Biết (Nhân Thế Tu Tri), Trần Lê
Sáng, Phạm Kỳ Nam dịch, Nhà xuất bản Văn
Học, 2001, tr. 7-8.
Muốn hiểu thêm về tác
phẩm Người Đời Nên Biết tức
Nhân Thế Tu Tri của Cao Xuân Dục xin
đọc thêm Nguyễn Đức Cung, Diên Lộc Quận
Công Nguyễn Thân, Nhà xuất
bản Nhật Lệ, Philadelphia, Hoa Kỳ 2002, tr. 394-408.
25.- Phạm Bá Nha, Đọc
tác phẩm “ Sách thuật lại ít
nhiều ca vè”, bài trích trong Trần
Lục do một Ban Biên
Tập ấn hành tại Canada, 1996, tr. 143.
26.- Phạm Bá Nha, Bài đã
dẫn, tr.
146.
27.- Phạm Bá Nha, Bài đã
dẫn, tr.
151.
28.- Phạm Xuân Thu, Tìm
hiểu “Hiếu Tự Ca” của Cha Sáu Trần
Lục (1825-1899), bài trích trong Trần
Lục do một Ban Biên Tập ấn hành tại Canada,
1996, tr. 179.
29.-
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ
thực lục, quyển XIII, kỷ nhà Lê, Viện Khoa
Học Xã Hội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội,
Hà Nội, 1998, tr. 514.
30.- Tuyển
Tập Cao Xuân Dục, Sách đã dẫn, tr. 245.
31.- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử
Lược,
bản in lần VI, Tân Việt, Sài Gòn, tr. 471.
32.- Phan Huy Lê, Họ
Lý Hoa Sơn, một họ Lý gốc Việt
ở Hàn Quốc, bài trích trong Tìm
Về Cội Nguồn,
Tập II, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội,
1999, trang 432-440.
33.- Đức Hồng Y Phanxicô Xavie
Nguyễn Văn Thuận, Đường
Hy Vọng, Kinh Đô ấn quán, Houston,
(không đề năm in), tr.116.