ánh sáng
Hoàng
Đạo
- Phở có nóng không
bác?
- Nóng.
- Vậy bác bán cho tôi ba xu.
Cậu
bé đặt sáu đồng trinh lên mặt gánh, lặng
yên đứng nhìn người bán phở
nhấc môi bánh nóng hôi hôi đặt
vào bát. Hơi nóng trong nồi nước dùng
bay tỏa ra từng đám trắng, gió chiều thổi tạt về đầu phố.
Bằng
đứng phía cuối gió, đương thẫn thờ cúi xuống
nhìn cỏ, bỗng giật mình
ngước mắt lên. Vô tình ngọn gió đã đột
ngột đem theo mùi thơm ngào ngạt
làm giác quan chàng rung động. Bằng quen tay
thò vào túi, và sực nhớ
rằng đồng hào cuối cùng chàng đã tiêu
hết từ chiều hôm trước, cả gia
tài chỉ còn một đồng trinh.
Lại một làn gió thơm đưa tới, nhẹ
nhàng vờn mớ tóc rối của Bằng. Như đột nhiên nghĩ
đến một việc cần,
Bằng hấp tấp rảo bước đi thật nhanh. Qua gánh phở, chàng
ngoảnh mặt
chăm chú nhìn một bông hồng lách qua giậu
sắt, rung rinh trước gió,
hình như không nghe thấy tiếng hàng phở chào:
- Mời thầy mua cho một bát.
Thực
thì Bằng vẫn nghe rõ lắm. Nhưng chàng không
muốn lên tiếng từ chối
trong khi lòng chàng rạo rực nôn nao. Chàng
đói. Chàng đói lắm: từ sáng
đến giờ, chưa có một hột cơm nào trong bụng, mà cứ
thế lang thang hết
phố này sang phố khác.
Bằng lang thang đi tìm việc làm. Đã hai
tháng nay, từ hôm Sở dầu thải hơn sáu chục người
làm công, không có
ngày nào là Bằng không đi như vậy.
Chàng chỉ biết có một nghề đánh máy
chữ và tính sổ, mặc dầu cha mẹ chàng xưa kia
chuyên nghề làm ruộng.
Đáng lẽ như người khác, Bằng bây giờ đã
vác cày ra đồng, khó nhọc kiếm
lấy miếng ăn dưới ánh nắng thiêu, trong những ruộng lầy.
Nhưng thuở nhỏ
chàng chăm chỉ và thông minh hơn trẻ khác,
nên cha mẹ chàng cố nuôi
chàng ăn học, có mấy sào ruộng bán dần đi
hết. Bằng vì thế trở nên một
thầy ký. Công việc có nhẹ nhàng nhưng cảnh
người làm công, cảnh bức
bách. Có điều mỗi lúc về quê, họ hàng
đối với chàng đều có vẻ trọng
vọng tôn kính. Còn chàng chắc cũng an phận,
nếu kinh tế không khủng
hoảng. Nhưng đã gần một năm nay, sở nào cũng nghe thấy
nói đến việc
thải người làm. Trong Sở dầu, anh em thường thì thầm
bàn đến một cách
sợ sệt. Duy ai nấy cũng thầm tưởng, thầm mong rằng có thải cũng
không
đến mình. Bỗng một hôm, đương lúc mọi người cặm cụi
làm việc, người
loong toong chạy vào:
- Mời các ông lên quan Đốc gọi.
Trong
phòng giấy rộng rãi, sang trọng, ông Đốc đứng
nghiêm trang trong bộ áo
là nếp thẳng thắn. Ông cám ơn mọi người đã
làm hết phận sự, rồi ông tỏ
nỗi lòng ông băn khoăn, khổ sở mấy hôm vừa qua:
- Các ông ạ, sự
khủng hoảng bắt buộc chúng tôi phải rời các
ông, tôi lấy làm tiếc vô
hạn. Tôi mong sẽ có ngày kia, kinh tế vững
chãi và các ông sẽ lại về
làm ở đây.
Nói xong, ông Đốc xem vừa ý lắm, thắt lại
cái cà vạt,
vuốt lại mái tóc mượt, vẻ mặt sung sướng khoan
khoái, ông bước lên xe ô
tô hòm giục tài xế đưa đến một khách sạn
sang để dự bữa tiệc chiều.
Trong khi ấy, các ông Ký bị thải ngơ ngác
nhìn nhau, rồi buồn bã người nào trở về nhà
nấy với mâm cơm cà và rau muống luộc.
Ngày
theo ngày, những ngày dài dằng dặc, những
ngày ngồi rỗi với một tâm hồn
chán nản, với cuộc tương lai mập mờ bất trắc. Mâm cơm
cà và rau muống
dần dần cũng không có nữa. Bằng đã tới cái
cảnh ngao ngán ấy. Về quê
làm nghề nông thì không còn một thửa
ruộng - Bằng cũng tự biết không đủ
sức cầy sâu, cuốc bẫm - và làm thợ thì
không biết nghề gì, Bằng chỉ còn
mong tìm được một chân bàn giấy. Chàng
tiêu dần hết cả tiền dành dụm,
mà không có chút hy vọng nào.
Ngày hôm nay, chàng không còn một
đồng xu dính túi. Đã vậy, chủ nhà,
bà Cai Đá, lại nhất định đòi tiền
thuê nhà, và sau một hồi thuyết lý mỉa mai,
bà ta hẹn lại cho Bằng đến
sáng mai phải trả, nếu không thì đứng trách.
- Đừng trách!
Bằng nhếch mép cười một cách chua chát, tâm
trí đầy rẫy nỗi uất ức, tức giận. Chàng ngẫm nghĩ:
-
Dốt nát ngu xuẩn như mụ Cai Đá thì chỉ việc ngồi
duỗi mà sống một cách
sung sướng đầy đủ, còn mình muốn làm vất vả cả
ngày để nuôi thân mà
cũng không được. Ông trời bất công thực.
Bằng ngửa mặt nhìn lên
không trung. Trời chiều trong xanh như ngọc thạch. Mấy đám
mây hồng nhẹ
nhàng trôi. Bằng cảm thấy rõ sự vô lý
của lòng oán hận một cảnh vật vô
tình, thản nhiên...
Bỗng chàng giật mình. Một tiếng còi gắt
gỏng, một câu nói bẳn và một cái xe ô
tô vụt qua trước mặt chàng. Chỉ
chậm một giây nữa thì Bằng bị ô tô cán
phải. Thì ra chàng bước xuống
đường nhựa lúc nào không biết.
Sợ hãi, Bằng lùi lên bờ hè, mới
hay mình ở trước vườn hoa nha Đốc lý. Mệt nhọc,
chàng ném mình xuống
một cái ghế dài gần đấy, ôn lại cái nạn vừa
xảy ra:
- Thật là chết hụt!
Ngẫm nghĩ, chàng tắc lưỡi:
- Chà! Chết mà lại hay... Sống khổ sở thế này
thì cũng chẳng nên sống làm gì.
Thở
dài, chàng xua đuổi ý nghĩ chán nản
nhìn ra chung quanh. Trời đã nhá
nhem tối, những bông cúc trắng rung rinh trong ánh
sáng mờ mờ khiến
Bằng nhớ đến cảnh xa hoa của tết năm nào.
Có tiếng nói sẽ như đáp lại ý nghĩ của Bằng:
- Lạy thầy dón tay làm phúc.
Trông người ăn mày hốc hác, rách rưới, đứng
chĩa tay trước mặt,
Bằng
nở một nụ cười buồn tênh, lắc đầu ra hiệu rằng mình
không có tiền.
Người ăn mày vẫn nhẫn nhục đứng lải nhải xin. Bằng đứng dậy
móc túi lấy
đồng trinh còn lại ném cho, rồi vừa đi vừa nói một
mình.
- Thế là hết.
Chàng
lần theo những phố đông đúc, trong lòng thấy vui
vui vì đã cứu một
người nghèo khó hơn mình. Thấy đói
và mệt, chàng dừng lại nhìn một cửa
hàng bán vàng bạc, tò mò ngắm
nghía những chiếc nhẫn dát kim cương lóng
lánh bên cạnh mấy đôi xuyến huyền nạm vàng.
- Nếu ta có một chiếc xuyến kia nhỉ?
Bỗng
một ý nghĩ bất chính nẩy ra trong trí Bằng. Như
muốn tránh sự cám dỗ,
chàng ngoảnh nhìn sang một cửa hàng ở dãy
bên kia phố. Trong khung
kính, mấy miếng xúc xích đương lơ lửng trên
vài chiếc bánh tây ngon
lành, và những chiếc bánh sữa đương phơi
màu vàng ngọt dưới ánh điện
sáng trưng. Bằng rùng mình, tưởng tượng ra một bữa
tiệc long trọng,
những chiếc bánh đặt trong giỏ mây bên cạnh những
cốc pha lê trắng
muốt, những đĩa thịt thơm tho. Bằng rùng mình, vì
ý nghĩ chiếm đoạt
tiền của người khác đã hình thành trong
óc chàng và xui giục chàng thò
tay vào lấy trộm chiếc xuyến.
- Họ có mất chiếc xuyến cũng không sao, mà ta lại
được một bữa cơm ngon.
Bằng
thò đầu vào cửa hàng bỏ vắng, bỗng chàng
nhìn thấy bóng trong gương,
mặt mày len lét, bơ phờ. Chàng kêu rú
lên một tiếng rồi cắm cổ chạy như
tội nhân đi trốn.
Về đến nhà, Bằng mới hoàn hồn, chàng nằm vật
xuống phản, thở hồng hộc, như vừa mới thoát khỏi một cái
nạn to: thiếu
chút nữa, chàng đã thành một thắng ăn cắp.
Nhưng nghĩ đến cách sống
ngày mai, Bằng càng bối rối. Biết làm gì
mà nuôi được thân bây giờ,
ngoài việc bất chính? Hay là đi hành khất?
Bằng nhớ lại người ăn mày ở
vườn hoa Đốc lý, nhớ lại cái nạn ô tô
suýt nữa xảy ra. Chàng than thở:
- Nó chẳng đè chết đi cho rảnh chuyện.
Một tư tưởng vụt ra trong trí, khiến chàng thẫn thờ lẩm
nhẩm:
- Âu là...
Rồi Bằng ôm mặt nức nở khóc.
*
* *
Mặt trời đã lên cao. ánh nắng êm đềm
xiên qua cửa sổ. Bà Cai Đá trỗi dậy, với lấy ống
nhổ, gọi con sen:
- Đỏ, mày chạy xuống đòi thầy Bằng tiền nhà đi.
Rồi bà lẩm bẩm:
- Lần này mà không trả thì bà bảo
cho. Đã hai tháng của người ta rồi, mà cứ
chây ra, người đâu mà trơ đến thế!
Con sen vừa mới bước xuống cầu thang, bà Cai Đá
khoác vội cái áo dài, chạy liền theo,
nét mặt hầm hầm.
Đến
cửa phòng Bằng ở, bỗng bà đứng dừng lại, ngạc
nhiên. Bà trông thấy Bằng
ngồi trên thành cửa sổ tay gõ dịp xuống tường,
miệng hát nghêu ngao...
- Thế nào, thầy trả tiền nhà tôi đi chứ?
Như
không nghe thấy câu hỏi của bà Cai, Bằng cúi
hẳn người ra ngoài, nhìn
chòm lá long não phấp phới rung rinh trước
gió, tươi cười như một cô
con gái nhí nhảnh. Bằng không hiểu sao mình
vẫn còn sống mà ra đây nhìn
ánh sáng và chàng lấy làm lạ rằng
sao lúc nãy chàng lại cảm thấy một
cách đằm thắm hơn mọi khi, cái vui, cái đẹp của
đời.
Rút từ tập truyện ngắn Tiếng đàn,
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1941
|
|
|
|