Tăng
Tuyết Minh,
Người
Vợ Trung Quốc Của
Nguyễn Ái
Quốc
Hoàng
Tranh
Lời toà
soạn: Ðăng lại từ tờ Diễn Ðàn, toàn văn
bài này Hồ Chí Minh với người vợ Trung
Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên
số tháng 11-2001 của tạp chí Ðông Nam
Á tung hoành
(Dọc ngang Ðông Nam Á), xuất bản tại Nam Ninh.
Tác
giả Hoàng Tranh (Huang Zheng) là nhà sử
học,
viện phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, tác
giả cuốn Hồ Chí Minh với Trung Quốc
(Nhà xuất bản Tân Tinh, Nam Ninh 1990). Bản dịch
của Minh Thắng. Theo thông tin từ Hà Nội, một
tạp chí sử học có ý đăng bài này,
nhưng
đã bị chặn lại. Ðoạn chữ thẳng
cuối bài là tóm tắt của Diễn Ðàn.
Ðiều này cho
thấy chính sách báo của các nước Cộng Sản
đã đưa ra những chứng cớ rành rành về
sự lấy vợ của Hồ Chí Minh mà Nhà Nước
CSVN vẫn một mực chối cãi.
"
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống
độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn
toàn
không phải Người suốt đời không lấy
vợ. Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một giai
đoạn sống trong hôn nhân chính thức. Ðó
là vào
thời kì những năm 20 đầu thế kỉ XX khi
người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng
Châu, Trung Quốc. Nói cụ thể là vào
tháng 10 năm 1926,
Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu Tăng
Tuyết Minh làm vợ, đã cử hành hôn lễ, sau
khi
cưới đã chung sống với nhau hơn nửa
năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu,
Hồ Chí Minh đã mất liên lạc với vợ và
từ đó không thể gặp lại nữa. Từ
đó, đôi tình nhân ấy, người không bao
giờ
đi bước nữa, người không một lần
nào nữa cưới vợ, mỗi người một
phương trời, đều sống độc thân cho
đến khi từ biệt cõi đời này."
"
Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc
của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai tỉnh Quảng
Ðông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng
Châu.
Thân phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời
trẻ một mình đến Ðàn Hương Sơn
(Hono-lulu) lúc đầu làm công, sau buôn
bán ; khi tích luỹ
được ít vốn liếng, trở về
nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá,
vui vẻ. Người vợ đầu của ông Tăng
Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau
khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế
họ Lương là người huyện Thuận Ðức
sinh được 7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Minh là
con út, bởi vậy những người quen biết
Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là " cô
Mười ". Khi cô 10 tuổi thì người cha
qua đời, để lại một chút bất
động sản. Bà Lương thị cùng Tuyết Minh
sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia
cảnh không
được như trước. Năm 1918, mới 13
tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu theo chị là
Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học
việc hộ lí và đỡ đẻ. Ðầu năm 1923,
người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh
đến Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu
học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may
lìa đời, Tăng Tuyết Minh mất đi nguồn
chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường
Hộ sinh Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925,
Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ
sản, được ông hiệu trưởng giới
thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ
hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm
quen
với Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến hành công
tác
cách mạng ở Quảng Châu."
"
(...) Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ Mạc Tư
Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thuỵ,
làm
việc tại phòng phiên dịch của cố vấn
Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú
ngụ tại nhà hàng của ông Bào tại quảng
trường Ðông Hiệu. Sau những giờ làm công
tác phiên
dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều thì giờ và
tâm sức
vào công việc liên kết và tổ chức các
chiến
sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ chức cách
mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng
Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy, những
thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng Châu
trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Ðức Thụ
đều trở thành trợ thủ đắc lực cho
Người. Lâm Ðức Thụ cùng người vợ Trung
Quốc của ông là Lương Huệ Quần chính là
ông
mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh
và
Tăng Tuyết Minh."
"
Lâm Ðức Thụ vốn tên là Nguyễn Công
Viễn,
người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình,
Việt Nam, sinh năm 1890 (cùng tuổi với Hồ Chí
Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đình Lâm
Ðức Thụ
có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai
người quen biết nhau từ thuở thiếu
thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí
Minh đến châu Âu tìm chân lí
cách mạng, gần như
đồng thời, hưởng ứng lời hiệu triệu
của nhà chí sĩ chống Pháp lão thành
Phan Bội Châu, Lâm
Ðức Thụ muốn Ðông du qua Nhật, nhưng khi nổ
ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu tới Trung
Quốc, sáng lập Việt Nam Quang phục hội ở
Quảng Châu, Lâm Ðức Thụ theo Phan Bội Châu
đến Quảng Châu và gia nhập hội đó. Ðầu
năm 1922, một số thanh niên nhiệt huyết trong
Việt Nam Quang phục hội cảm thấy thất
vọng về cánh già bảo thủ nên đã li khai
Quang
phục hội để lập ra một đoàn thể
cấp tiến hơn là Tâm tâm xã. Sau khi đến Quảng
Châu, Hồ Chí Minh rất nhanh chóng liên hệ
được với Tâm tâm xã và quyết định
cải tạo tổ chức này thành một tổ chức
cách mạng chân chính của giai cấp vô sản Việt
Nam. Hồ Chí Minh vốn quen biết Lâm Ðức Thụ
từ trước nên ở Quảng Châu Người coi Lâm
là cốt cán có thể tin cậy.
"
Lâm Ðức Thụ hoạt động ở Quảng Châu
một thời gian khá lâu. Ở đây ông đã lấy
cô
gái Trung Quốc Lương Huệ Quần làm vợ.
Mẹ của Lương Huệ Quần là một thầy
thuốc đã mở tại thành phố Quảng Châu
một dịch vụ y tế. Lương Huệ Quần
có làm công tác y tá tại đó.
Năm 1925, Tăng Tuyết Minh
tốt nghiệp trường Bảo sinh trợ sản,
qua sự giới thiệu của ông hiệu trưởng
đã tới cơ sở dịch vụ y tế của
mẹ Lương Huệ Quần làm cô đỡ nên đã
nhanh chóng quen biết với Lương Huệ Quần và
trở nên thân thiết. Lương Huệ Quần lớn
hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô thường
gọi là " chị Quần ", hai cô
đối xử với nhau như chị em ruột.
"
Lâm Ðức Thụ sau năm 1927 đã từng bước
phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm
không ít điều nguy hại cho sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Nhưng tại thời điểm
mấy năm Hồ Chí Minh mới đến Quảng Châu
thì ông ta cũng là một thanh niên cách
mạng hăng hái có
triển vọng. Hồ Chí Minh chẳng những
được Lâm Ðức Thụ phối hợp và chi
viện trong công tác mà còn được Lâm
giúp đỡ
cả về mặt kinh tế. Hồ Chí Minh thậm chí
đã đem cả chuyện trăm năm của mình phó
thác cho Lâm Ðức Thụ. Mùa hè năm 1926,
Hồ Chí Minh
đề xuất với Lâm Ðức Thụ rằng do
việc công quá bận rộn, anh cũng muốn tìm một
cô gái Trung Quốc để tiện trong cuộc sống
nơi cư trú có người chăm sóc. Lâm Ðức
Thụ
cùng với vợ là Lương Huệ Quần bàn bạc
thấy Tăng Tuyết Minh là đối tượng thich
hợp bèn giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ
Chí Minh làm quen với nhau. Hồ Chí Minh sau khi
gặp mặt
Tăng Tuyết Minh đã rất có cảm tình với cô
gái
Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng
nõn
điềm đạm, đoan trang, thông minh, sáng dạ, vì
vậy sau giờ làm thường hẹn gặp và trò
chuyện với cô. Nơi gặp gỡ thường là nhà
Lương Huệ Quần. Cảm tình của đôi bên
ngày càng sâu sắc, nhanh chóng đi đến trao
đổi
về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí Minh thường
đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàng của ông
Bào để gặp phu nhân họ Bào và tranh thủ
ý
kiến của bà về việc hôn nhân của họ. Phu
nhân họ Bào nhiệt liệt tán thành việc kết
hôn
của họ. Thế nhưng bà mẹ Tăng Tuyết Minh
ngay từ đầu không đồng ý cuộc hôn nhân
này vì
thấy Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng
phiêu lưu
bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy
người như vậy rồi sẽ khổ đau
một đời. Ðúng vào lúc ấy người anh hai
của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương,
sau một thời gian sang Mỹ học tập đã
trở về Quảng Châu.Anh gặp Hồ Chí Minh, dùng
tiếng Anh trò chuyện, thấy Hồ Chí Minh có học
vấn rất tốt, lão luyện và cẩn trọng,
lại tâm huyết với sự nghiệp, vì thế anh
đã thuyết phục bà mẹ đồng ý với
cuộc hôn nhân này."
"
Hồ Chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn luôn. Một
mặt, cố nhiên, anh thích tính giản dị, đoan trang,
thông minh, chăm chỉ của cô gái ; mặt khác
anh cũng
cảm thấy cô còn non nớt, cần phải giác ngộ
chân lí cách mạng hơn, hiểu đời hơn nữa
và nâng cao năng lực hoạt động hơn. Vì
vậy anh động viên Tuyết Minh thôi việc nữ
hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế và tham
gia học tập ở một lớp huấn luyện
vận động phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ
vận của Trung ương Quốc dân đảng Trung
Quốc do Hà Hương Nghi chủ trì, đang dự
định mở một cơ sở huấn luyện
vận động phụ nữ tại Quảng Châu
nhằm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước.
Hồ Chí Minh thông qua sự quen biết trực tiếp
với các vị Chu Ân Lai, Ðặng Dĩnh Siêu, Lí
Phú Xuân, Thái
Sướng, xin được hai suất cho Tăng
Tuyết Minh và Lương Huệ Quần cùng vào học
lớp huấn luyện vận động phụ nữ.
Kì ấy, lớp khai giảng ngày 16 tháng 9 năm 1926
và
kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1927, thời
gian học
tập là nửa năm. Quảng Châu thời ấy là trung
tâm của cách mạng Trung Quốc. Trong quá
trình lớp
huấn luyện phụ vận tiến hành, người ta
chẳng những đã mời không ít các đồng
chí có
trách nhiệm của Ðảng cộng sản Trung Quốc
đến giảng mà còn tổ chức cho học viên tham
gia các hoạt động xã hội. Nhờ được
học tập, quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến
bộ rất nhanh, trong khoá học, được bạn
đồng học là Trịnh Phúc Như giới thiệu,
cô đã gia nhập Ðoàn Thanh niên xã
hội chủ nghĩa."
Nguyễn Ái Quốc và
Tăng Tuyết Minh
thập
niên 1920
(thời
điểm kết hôn: 1926)
"Do
Hồ Chí Minh lại thúc giục nên hôn lễ của hai
người đã được cử hành vào tháng 10
năm 1926. Lúc ấy Hồ Chí Minh 36 tuổi, còn Tăng
Tuyết Minh 21. Ðịa điểm tổ chức hôn lễ
là nhà hàng Thái Bình trước Ty
Tài chính ở trung tâm thành
phố. Ðó cũng là địa điểm mà một năm
trước đấy Chu Ân Lai và Ðặng Dĩnh Siêu
mời khách đến dự lễ kết hôn của mình.
Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La
Ðình, Thái Sướng,
Ðặng Dĩnh Siêu và một bộ phận học viên
khoá
huấn luyện phụ vận. Phu nhân họ Bào tặng
một lẵng hoa tươi. Mấy ngày đầu sau
lễ cưới, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh
tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên cách mạng
đồng chí hội, vốn là nơi nghỉ ngơi
của Hồ Chí Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang chủ
trì khoá huấn luyện chính trị đặc biệt
thứ III của Việt Nam, do học viên khá đông nên
địa điểm học tập đã chuyển
từ Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí
hội đến phố Nhân Hưng ở đường
Ðông Cao. Mấy ngày sau Hồ Chí Minh và
Tăng Tuyết Minh
dọn đến trú ngụ ở quán của ông Bào,
lúc
đầu dùng bếp tập thể, sau tự nấu
nướng. Hồ Chí Minh bận rộn công tác, mọi
việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến.
Cô chăm sóc chu đáo mọi sự ăn uống, sinh
hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh, giúp cho anh
từ tuổi 21 đã xa nhà bôn tẩu, làm " kẻ
phiêu diêu " góc bể chân trời,
thì nay sau 15 năm
lại có được cảm giác ấm áp " ở
nhà mình ". Hồ Chí Minh rất mãn
nguyện về
cô vợ Trung Quốc của mình. Sau ngày cưới, Hồ
Chí Minh từng nhiều lần đàm đạo với Lâm
Ðức Thụ, Lương Huệ Quần về vợ
mình, đều nói rõ điều đó."
Uyên
ương chia lìa đôi ngả
" Thế
nhưng phúc chẳng dài lâu. Ngày 12
tháng 4 năm 1927, mới
nửa năm sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết
Minh kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản
bội cách mạng, phát động cuộc chính biến
phản cách mạng tại Thượng Hải, tình
thế ở Quảng Châu cũng chuyển biến theo.
Trước đó, chính phủ Quốc dân đã rời
tới Vũ Hán. Trụ sở của đoàn cố
vấn Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Và tất
nhiên, Hồ Chí Minh cũng phải chuyển đến
Vũ Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ Chí Minh lưu luyến
chia tay với Tăng Tuyết Minh, trước lúc lên
đường dặn đi dặn lại Tăng
Tuyết Minh: " Em phải bảo trọng,
đợi tin tức của anh ; ổn định nơi
chốn một chút là anh đón em ngay ". Thế
rồi, Hồ Chí Minh rời Quảng Châu, chuyển
đến Vũ Hán, rồi lại chuyển đến
Thượng Hải, đi đường Hải Sâm Uy,
khoảng giữa tháng 6 năm 1927 đến Mạc Tư
Khoa. Sau đó, Hồ Chí Minh lại vội vàng đến
Ðức, Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Italia... tạm ngừng
công tác, cuối cùng, tháng 8 năm 1929, đến
Thái Lan.
"
Do Tưởng Giới Thạc phản bội, thành
Quảng Châu rơi vào giữa một cuộc khủng
bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ Chí Minh, Tăng
Tuyết Minh một mình về sống với mẹ và
những người thân. Trong hai năm, từ tháng 7
năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh
vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung
học
nữ sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu, cô còn
giữ được liên hệ với một số
đồng chí cách mạng quen biết ở cơ sở
huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc dân
đảng ngày càng đàn áp tàn bạo
các đảng viên
cộng sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh
quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên
hệ về tổ chức của cô với đoàn viên
Ðoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa Trung Quốc
cũng
bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết
Minh rời Quảng Châu, về quê nhà của mẹ ở
Thuận Ðức, làm nữ hộ sinh tại một
trạm y tế tư ở thị trấn Lặc Lưu.
Ðầu năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ
hộ sinh ở y xá Quần An của Dư Gia Viên, thị
trấn Lạc Tòng, huyện Thuận Ðức.
"Thời
gian này, Hồ Chí Minh có hai lần nhờ người mang
thư và gửi thư liên hệ với Tăng Tuyết
Minh, nhưng đều không kết quả. [...] Sau khi
đến Thái Lan, Người lấy tên là Ðào Cửu,
tiến hành công tác tuyên truyền và tổ
chức cách
mạng trên đất Thái Lan. [...] đã hơn một
năm Hồ Chí Minh li biệt với Tăng Tuyết Minh,
nhớ nhung da diết. Nơi đây cách Trung Quốc
tương đối gần, nhờ người
chuyển thư cũng tiện, bèn cầm bút viết
thư cho Tăng Tuyết Minh. Hồ Chí Minh cũng nghĩ
đến thời cuộc biến loạn, tình huống
thiên biến vạn hoá, thư có đến được
tay vợ hay không, thật khó dự đoán. Vì vậy,
anh
quyết định dùng lời lẽ ngắn gọn, hàm
súc viết một bức thư ngắn, bảo cho
biết mình vẫn bình an và thăm hỏi người
thân.
Nội dung bức thư đó như sau: "Từ ngày
chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ
thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu.
Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để
em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi,
và cầu cho
nhạc mẫu vạn phúc. Anh trai vụng về, Thuỵ
".
Phiên âm Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình
thâm, Bất ngôn tự hiểu. Tư nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng (*)
vọng. Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn
phúc. Chuyết huynh Thuỵ Cùng em xa cách Ðã hơn một năm Thương nhớ tình
thâm Không nói cũng
rõ. Cánh hồng thuận
gió Vắn tắt vài dòng Ðể em an lòng Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin
kính chúc
Anh ngu vụng: Thuỵ (Bản dịch của
N.H.Thành) |
|
Thư
của Nguyễn ái Quốc (Lý Thuỵ) gửi Tăng
Tuyết Minh, bị Mật thám Ðông Dương chặn
được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại
C.A.O.M. (Aix en Pro-vence). Xuất xứ: Daniel Hémery, HOCHIMINH
De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.
*) Sau khi do
dự giữa sở
và ngưỡng, ông Nguyễn Hữu Thành đã
chọn phiên âm là ngưỡng. Ba nhà
Hán học khác thì
cả quyết là sở và cho biết đó là
tự
dạng cổ. Bất luận thế nào, sở vọng
hay ngưỡng vọng ở đây đều nói
lên ý ước mong [chú thích của Diễn
Ðàn]
"[...] Không rõ người
mang thư sơ suất, hay là anh ta vốn dĩ không
thể tin cậy, mà bức thư đó đã nhanh chóng
lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Ðông
Dương, cuối cùng thành vật lưu trữ tại
Cục hồ sơ can án quốc gia của nước
Pháp. Năm 1990, trong dịp kỉ niệm 100 năm sinh
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Gallimard ở Pháp đã cho ra mắt bạn đọc
cuốn sách Hồ Chí Minh - từ Ðông Dương
đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh hoạ trong
sách có bản in chụp bức thư bằng Trung văn
nói trên của Hồ Chí Minh gửi cho vợ, với
những dòng thuyết minh: “ Thư của Nguyễn ái
Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho vợ.Chuyển
tới cơ quan đặc vụ Ðông Dương ngày 14
tháng 8 năm 1928 ”. [...] Một tác giả
tên là Bùi
Ðình Kế trên báo Nhân Dân của Việt
Nam, số ra ngày 19
tháng 5 năm 1991 đã dẫn lại bức thư đó
trong bài nhan đề Về một tài liệu liên quan
sinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc. Bài
báo
đã phân tích và phỏng đoán bức thư
đó
liệu có phải của Hồ Chí Minh hay không. Tuy
nhiên,
đã không đưa ra được kết luận rõ
ràng. Thực ra, bức thư đó chính xác
là do Hồ Chí
Minh viết. Một là, đối chiếu với những
thư cảo Trung văn của Hồ Chí Minh thì bức
thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút
tích của
người. Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức thư
đó cách thời điểm chia tay với Tăng
Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ở
trong thư. Ba là, tên kí dưới thư thuỴ đúng
là
bí danh Hồ Chí Minh dùng trong thời gian ở Quảng
Châu.
Bốn là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha,
chỉ có mẹ lúc ấy còn sống, và Hồ Chí
Minh
nắm rõ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an
nhạc mẫu. Căn cứ những điều trên,
bức thư đó do Hồ Chí Minh viết, không còn
nghi
ngờ gì nữa. Thư viết xong đã rơi vào tay
mật thám Pháp, đó là điều Hồ Chí
Minh đã không
thể lường trước được.
"
Lúc ấy, Hồ Chí Minh công tác ở
Thái Lan đến
tận tháng 11 năm 1929. Sau đó, Người
được Quốc tế Cộng sản cử
đến Hương Cảng, triệu tập hội
nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản
thành một đảng cộng sản. " Hội nghị
thống nhất " đã khai mạc tại
Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức
tuyên
bố thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam. Sau
hội nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí Minh trở
lại Thái Lan, tháng 4 lại đến Hương
Cảng. Sau, nhiều lần lại từ Hương
Cảng đến Thượng Hải, tiến hành công tác
tuyên truyền và tổ chức cách mạng trong Việt
kiều tại tô giới Pháp ở Thượng Hải.
Lúc ấy, các đảng viên cộng sản Việt Nam
Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... cũng
đang hoạt động trong Việt kiều ở
Thượng Hải. Ðầu tháng 5 năm 1930, Hồ Chí Minh
lại viết một bức thư nữa từ
Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức
thư này gửi qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc
ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ sở
dịch vụ y tế tại Gia Dư Viên, thị trấn
Lặc Lưu, huyện Thuận Ðức. Nội dung yêu
cầu Tăng Tuyết Minh mau mau đến Thượng
Hải đoàn tụ. Trong thư có hẹn kì hạn và
nói
rõ nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh
không
đến sẽ đành một mình xuất ngoại.
Thế nhưng, với cả bức thư này nữa,
cũng đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn, Tăng
Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài
liệu hồi ức do Tăng Tuyết Minh viết
cũng như lời kể lại của bà qua thư
từ trao đổi với tác giả bài này đều nói
tới hoàn cảnh của sự cố này.
"
Hoá ra, tháng 7 năm 1929 Tăng Tuyết Minh sau khi
đã
rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh ở trạm y
tế của bác sĩ Dư Bác Văn mới mở ra
ở thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận
Ðức, đến cuối năm. Ðầu năm sau, cô
lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá
Quần An của Sa Khiếu ở thị trấn Lạc
Tòng cũng huyện Thuận Ðức. Bức thư của
Hồ Chí Minh chuyển đến cho trạm y tế
của Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu
thì lúc ấy Tăng Tuyết Minh đã rời đi
rồi. Trưởng trạm y tế Dư Bác Văn
chẳng những không kịp thời chuyển thư
đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại còn
tự ý mở thư trước mặt vợ mình,
lại còn gọi thêm cả nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng,
xem trộm nội dung thư, sau đó đem đốt
đi. Nửa năm sau khi xảy ra chuyện đó,
Tăng Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm
mẹ và nhận lời mời đến dự lễ
khai trương cơ sở y tế tại nhà một
bạn đồng học cũ. Tại đây cô bất
ngờ gặp laại nữ y sĩ HoàngNhã Hồng,
người đã từng làm việc cùng tại thị
trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Ðức. Nữ y
sĩ đó đã đem toàn bộ sự việc tuôn ra
hết ngọn ngành. Lúc ấy so với thời hạn
Hồ Chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải
thì đã qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ còn
biết kêu khổ khôn nguôi, nuốt nước mắt vào
lòng. Như vậy con người kia đã gieo tại
hoạ khiến Tăng Tuyết Minh mất đi cơ
hội được trở lại bên chồng, cũng
gây cho cô một bi kịch suốt đời trong tương
lai.
"
Ðến cuối năm 1931, rốt cuộc Tăng
Tuyết Minh cũng có được một cơ hội
gặp Hồ Chí Minh nhưng lại là tại toà án của
nhà đương cục Anh ở Hương Cảng xét
xử Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có thể
nhìn thấy Hồ Chí Minh từ rất xa, còn Hồ Chí
Minh
thì hoàn toàn không biết vợ mình
có mặt tại toà.
Cuối những năm 20 - đầu 30 hoàn cảnh
của các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động
tại Hương Cảng rất tồi tệ. Trong hàng
ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở
bí mật bị phá hoại, chính quyền thực dân
Pháp và
nhà đương cục Anh ở Hương Cảng
cấu kết với nhau bắt bớ các chiến sĩ
cách mạng. Hồ Tùng Mậu bị các nhà đương
cục Anh bắt rồi giao cho mật thám Pháp " dẫn
độ " về Việt Nam giam cầm. Hồ
Chí Minh cũng bị các nhà đương cục Anh
bắt ngày 5-6-1931, lí do là làm tay sai cho
hội Lao Liên, âm
mưu tiến hành hoạt động phá hoại tại
Hương Cảng. Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt,
Quốc tế Cộng sản thông qua hội Chữ thập
đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ
chức đó lại mời một luật sư tiến
bộ người Anh ở Hương Cảng là ông Loseby
bào chữa cho Hồ Chí Minh. Sau vài tháng bị
giam giữ,
Hồ Chí Minh bị đưa ra xét xử. Lần này
đến Hương Cảng, Người lấy bí danh
là Tống Văn Sơ. Nhưng sau khi bị bắt nhà
đương cục Anh đã phát hiện đó chính
là Lý
Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy
rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng
thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang
bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng
trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là
Tăng Cẩm Nguyên. Ðọc được tin toà sẽ xét
xử chồng mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè
cũ cùng đến toà. Người đến dự thính
xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải
ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn thấy
hình dáng tiều
tuỵ của người chồng xa cách đã năm
năm mà lòng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang.
Nhưng do khoảng cach khá xa, lại giữa toà ánm vợ
chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà
Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề
biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước
mắt mình. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm
nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một
trọng phạm chính trị không được phép
thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi
dò nhiều nơi và biết được rằng hội
Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby
đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh
có lẽ
cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu
trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết
làm sao.
" Tháng
2 năm 1932, thân mẫu Lương thị của Tăng
Tuyết Minh bệnh nặng qua đời, hưởng
thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết Minh chuyển đến
công tác ở y xá Quần An ở huyện Ðông
Hoàn, vốn là
cơ cấu phân chi của y xá Quần An huyện Thuận
Ðức, vẫn làm nữ hộ sinh. Lúc này, cha mẹ
cô
đều đã mất, anh em đông nhưng người
thì đi xa, người thì chết sớm, Tăng
Tuyết Minh côi cút độc thân, thật là buồn
khổ. Năm 1943, sau tiết xuân, thầy giáo cũ là
Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân
ở Quảng Châu một phòng chẩn trị, có lời
mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn xin
thôi việc ở Ðông Hoàn, đến phòng chẩn trị
của Trương Tố Hoa làm nữ hộ sinh và làm
việc ở đó cho đến tận ngày (Trung Quốc)
giải phóng. Sau khi nước Trung Quốc mới
được thành lập, chính phủ tiến hành cải
tạo và chỉnh đốn các cơ sở kinh tế
tư nhân, thành lập các trạm vệ sinh bảo vệ
sức khoẻ tại các khu. Tăng Tuyết Minh
hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ,
đã đến công tác tại trạm số 8 ở khu
vực phía Tây. Về sau trạm này đổi gọi là
Viện Vệ sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu
Lệ Loan). Tăng Tuyết Minh công tác ở đó,
hành
nghề nữ hộ sinh đến tận năm 1977 khi
về hưu."
Thế
là từ sau lần trông thoáng thấy chồng ở
Hương Cảng, không bao giờ Tăng Tuyết Minh
gặp lại Nguyễn Ái Quốc nữa. Theo tác giả
Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình Chủ tịch Hồ
Chí
Minh đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng
với tóm tắt
tiểu sử, bà tin chắc Hồ Chí Minh chính là
chồng
mình, nhất là sau khi tìm mua được cuốn
Truyện Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Tân Hoa).
Bà đã
" báo cáo với tổ chức ”, đồng
thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch
Hồ Chí Minh thông qua đại sứ Việt Nam tại
Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan. Những bức thư ấy
“ đều như đá chìm biển khơi (...) thậm
chí chúng có được gửi ra khỏi Quảng Châu hay
không là điều còn đáng hoài nghi
". Tuy nhiên,
một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã tới
gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà
Thái
Sướng (một trong những người đã tới
dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Ðặng
Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai) " chứng thực
Hồ Chí Minh chính là Lý Thuỵ cũng tức
là chồng
Tăng Tuyết Minh ". Cán bộ này cũng " giải
thích (...) lí do tại sao không tiện liên lạc
với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết
Minh hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm
công tác
". Vẫn theo sử gia Hoàng Tranh thì về phần mình,
Hồ Chí Minh đã " từng thông qua Tổng
lãnh
sự ViệtNam tại Quảng Châu dò tìm tăm tích
của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại nhờ Bí
thư Trung Nam cục Ðào Chú dò tìm dấu
vết của bà
" song " việc trên đương nhiên không
thể có bất kì kết quả gì " vì " điều
này vào thời ấy hoàn toàn không
kì lạ ".
Bà Tăng
Tuyết Minh đã " yên tâm công tác
” cho đến
năm 1977 mới về hưu, sau 52 năm tận tuỵ
với nghề nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đình bà
theo đạo Công giáo từ đời ông nội, và
bà
" thường xuyên đi lễ ở giáo
đường ". Bà " có thói quen ăn uống
đạm bạc, không dùng cá thịt ", cuộc
sống " vô cùng giản dị ", " luôn vui
vẻ giúp người "...
"
11 giờ 15 phút ngày 14 tháng 11 năm 1991, sau
86 năm
trải qua con đường đầy lận
đận long đong, tại nơi cư ngụ [687
đường Long Tân Ðông, Quảng Châu], cụ
bà
Tăng Tuyết Minh đã bình yên nhắm mắt, thanh
thản trút hơi thở cuối cùng ".
Hoàng Tranh