Anh đỏ Phụ
Hồ
Dzếnh
Đã lâu, lâu
lắm rồi, người dân xã Hòa Trường không ai
còn nghe nói đến tăm hơi anh
đỏ Phụ ở đâu nữa. Nhiều người đồn rằng anh đã chết
bên Tân thế giới.
Riêng tôi, tôi không sao quên được anh,
mà không quên được anh, có
nghĩa là anh vẫn sống, ít nhất là trong ký
ức tôi.
Mãi
đến năm hơn ba mươi tuổi, anh đỏ Phụ mới đến làm rể mẹ tôi
để chờ ngày
cưới chị Yên về làm vợ. Đó là một anh
chàng rụt rè, nhút nhát, đối với
nhà vợ rất nể sợ, nhưng lại tỏ ra hết sức tháo vát
trong mọi công việc.
Lui tới nhà tôi trong hơn hai năm, anh giữ gìn từng
cử chỉ, lời nói,
ngay cả việc giáp mặt chị Yên, anh cũng cố tránh để
khỏi mang tiếng là
suồng sã. Mẹ tôi thương anh vì anh nết na, cần
cù, giao cho việc gì
cũng làm đến nơi, đến chốn. Mẹ tôi thường nói:
- Thằng Phụ nó nghèo nhưng là cái
nghèo thanh bạch. Ông Biếm lại là ông đồ nho
hay chữ nhất xã.
Ông
Biếm là bố anh đỏ Phụ. Vác lều chõng đi thi hỏng
tú tài, thất thế, ông
quay về làng mở lớp dạy học. Cái thuở "chi, hồ, giả,
dã" nhanh chóng
qua đi, học trò ông Biếm sớm đổi ngọn bút
lông sang ngòi bút sắt. Trong
đám môn sinh thưa vắng dần, chỉ còn một người theo
học, ngoan ngoãn nằm
rạp trên chiếc chiếu, mài mực, chép bài.
Người đó là anh đỏ Phụ, vừa là
con, vừa là môn đệ của thầy.
Rồi anh Phụ cũng thôi học nốt. Vốn
liếng chữ nghĩa bố ban cho, anh Phụ chỉ còn giữ lại được mươi
trang
luận ngữ và anh chuyển sang đọc chữ Nôm, dựa vào
cuốn Kim Vân Kiều
truyện khắc gỗ, in chân phương trên nền giấy bản:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Tiếng
anh đỏ Phụ ngâm Kiều nghe buồn như tiếng xẻ gỗ vào những
chiều nắng tà
hiu hắt. Và cái nghèo, cái đói cũng
len lỏi vào ba gian nhà lá thừa tự,
làm hốc hác thêm nét mặt người bố và
làm rạn dần hai bộ quần áo may
bằng vải trúc bâu, lâu ngày sợi đã bở,
của hai bố con ông Biếm.
Hồi
gia đình tôi mới đến "ngụ cư" ở xã Hòa
Trường này, ba tôi tìm tới kết
thân với ông Biếm. Ông là người được
xóm làng vị nể, họ bên ngoại ông
lại trùng với họ chúng tôi. Theo một tập tục
đã có từ nhiều đời, ba
tôi, mỗi khi đến ngụ cư ở đâu, thường vẫn tìm những
người "đồng tính",
hoặc "đồng tuế", "đồng hương" để kết nghĩa. Hơn nữa, ông Biếm lại
am
hiểu Hán học, nên qua những câu chuyện trao đổi,
ông trở thành người
bạn tâm đắc với ba tôi. Mỗi lần sang nhà ông
chơi, ba tôi đều dắt tôi
đi theo. Đó cũng chính là đầu mối thân quen
đưa đẩy anh đỏ Phụ trở
thành người con rể trong gia đình chúng tôi.
Còn chị Yên, chị
gái nuôi, thì mẹ tôi đặt đâu chị ngồi
đó, tuổi chị cũng xấp xỉ tuổi anh
Phụ, và cũng ước mong kín đáo một tấm chồng
chân chỉ như anh.
Thấy
anh đỏ Phụ lần nào đến với chúng tôi cũng chỉ với
cái áo cánh nâu,
chiếc quần nâu, tôi hiểu ngay rằng anh chỉ có độc
một bộ như thế mà khi
về nhà anh cởi ngay ra, để mặc vào chiếc quần vá,
hoặc đóng một cái khố
nâu. ở quê tôi ngày xưa, đàn ông
nghèo đóng khố ra đường là chuyện
thường thấy. Một lần, tôi bảo nhỏ anh Phụ:
- Anh em còn mấy bộ quần áo đấy. Hay là em lấy đưa
anh mặc tạm nhé?
Tức thì anh Phụ rối rít xua tay, mặt ửng đỏ:
- Chết! Ai lại làm thế. Mẹ biết, mẹ cười cho!
ý anh Phụ muốn nói:
- ... Chị Yên biết, chị Yên cười cho.
Nhưng anh không dám nhắc đến hai tiếng "chị Yên".
Đã
là người thân của anh Phụ, tôi hay sang nhà
anh chơi. Nhà anh ngăn nắp
nhưng có vẻ trống trải, mái lá, vách đất,
sân bằng đất nện, nửa sào
vườn trồng mấy hàng cây cam, cây bưởi, vài
thân cau. Từ ngõ chạy vào là
hai hàng rào râm bụt cắt tỉa gọn gàng. Những
ngày hè oi ả, sang nhà anh
chơi, tôi có cái cảm giác như được hưởng
những làn gió mát rợi, làn gió
thường ngày vẫn lay động nhẹ nhàng chiếc quần vải
trúc bâu phơi trên
dây thừng, cái quần độc nhất ông Biếm đợi khô
để nương nhẹ mặc vào, mỗi
khi có việc ra đường hay đi ăn cỗ. Ông Biếm sống bằng nghề
viết câu đối
và tính hộ ngày giờ hung cát cho những
đôi lứa thành thân.
Vốn
liếng hàng năm của gia đình ông là hai
mùa trẩy quả vườn đem ra chợ
bán, chắt chiu để dành trong cái tráp gỗ
sơn đen. Từ ngày được nhận làm
thông gia với nhà tôi, ông Biếm mỗi năm ba bốn
lần biện một món lễ sang
sêu tết, có khi là mâm xôi, con
gà, có khi là mấy gói chè hương,
khay
ngũ quả. Tôi còn nhỏ, nhưng cũng hiểu ra rằng, để sắm được
một món lễ
cho ra lễ như thế, ông Biếm và anh Phụ đã phải
bóp bụng, bớt ăn trong
nhiều ngày.
Hơn hai năm qua đi. Sắp đến ngày mãn tang ba tôi.
Sắp đến ngày anh Phụ bỏ miếng trầu ăn hỏi, và thế
là niềm mong ước bao
lâu nay của ông Biếm đã có cơ thành sự
thật. Lấy anh đỏ Phụ, chị Yên
không phải sống xa nhà, chị có nhiều dịp tạt về
thăm chúng tôi, cũng
như tôi, bất cứ lúc nào, cũng có thể dễ
dàng đến với chị. Cái hạnh phúc
nhỏ bé của lòng tôi sao mà náo nức,
thiết tha và gần gũi đến thế!
Chị
Yên! Nếu đời chị đừng gặp một tai họa éo le, nếu chị cứ
là chị Yên ước
mong thầm kín một người chồng hiền lành như anh Phụ,
thì đâu đến nỗi
chị phải xa lìa tôi, lẩn tránh mọi người, và
tôi đâu có phải viết ra
câu chuyện tình đau xót hôm nay!
Cả anh Phụ nữa, sao cái bóng
dáng hiền lành của anh lúc này không
còn thấp thoáng hiện ra qua hàng
rào cây ruối nữa, cái bóng dáng cố
làm ra thản nhiên, nhưng kỳ thực là
bối rối, xao xuyến, mỗi lần anh đến nhà tôi?
Chỉ còn một tháng
nữa, ba mươi ngày nữa, một tuần trăng nữa, là anh đỏ Phụ
sẽ đem lễ sang
nhà tôi xin cưới chị Yên! Đột nhiên, như một
cơn gió độc, người cậu họ
tôi, không rõ từ đâu, sà xuống
mái nhà chúng tôi, ở lỳ làm một vị
khách
báo hại. Những cái gì xấu xa, bỉ ổi xảy đến với
người con gái đang khấp
khởi tin vui, người con gái đau khổ, tôi đã
có dịp viết hết ra trong
truyện "Chị Yên".
Anh Phụ không biết gì hết.
Mọi người trong nhà tôi không ai biết gì hết.
Chỉ
có hai người biết: cậu tôi - tên tội phạm -
và tôi. Nhưng cậu tôi đã bỏ
nhà tôi, trốn biệt. Tôi ở lại, nhưng tôi lại
phải ngậm miệng, giấu tận
đáy lòng một sự thật tàn nhẫn mà nếu hở ra,
tôi chắc sẽ làm cho đời anh
đỏ Phụ tan nát. Thà cứ để anh ấy không biết
gì cả, cứ để anh ngờ vực,
phỏng đoán, kín đáo dò hỏi xung quanh. Rồi
không dằn lòng được mãi, một
hôm anh kéo tôi lại sát gần, hỏi rất nhỏ:
- Nói thật cho anh biết đi em. Tại sao chị Yên lại bỏ
nhà ra đi? Ai đánh chị hay đuổi chị?
Tôi trả lời mà đôi mắt cay sè, nóng
bỏng:
- Em không biết. Em không biết thật mà. Chắc
là... chắc là chị ấy bị mẹ mìn dỗ đi không
chừng.
Giá
như mọi lần, nghe tôi nói như thế, anh Phụ đã cười.
Nhưng lần này anh
không còn có thể cười được nữa. Mặt anh đanh lại.
Tiếng anh nói, tôi
nghe thều thào, không thật, tiếng nói như rơi
vào một khoảng trống rỗng
mơ hồ:
- Lạ thật em nhỉ? Sao chị Yên lại bỏ nhà ra đi?
Rồi
anh nằm vật xuống giường, một tay vắt lên trán, thở
dài. Đó là một dáng
nằm chán chường, tuyệt vọng. Tại sao tôi không
nói thẳng cho anh biết
rằng chị Yên của tôi, người vợ sắp cưới của anh, đã
bị một tên khốn nạn
làm nhục? Tại sao? Tôi chỉ còn biết trả lời cho
chính tôi nghe mà thôi.
Từ
hôm chị Yên bỏ nhà ra đi, việc làm đầu
tiên của mẹ tôi là sang xin lỗi
ông Biếm và xin trả của lại cho ông. Mẹ tôi
tính nhẩm lại những món lễ
ông mang sang biếu nhà tôi, hết bao nhiêu, để
mẹ tôi đáp lại bằng số
tiền rộng rãi gấp bội.
Nhưng ông Biếm một mực từ chối. Đôi mắt
ông vốn đã buồn, lúc này càng buồn
hơn. Ông vẫn mặc bộ quần áo vải trúc
bâu đã sờn để tiếp chuyện mẹ tôi, bộ cánh
ngày nào ông mặc vào những
lần sang sêu tết. Tôi nhận thấy ông già đi
nhiều, đôi gò má nhô lên và
nước da khô héo. Giọng ông run run, chậm rãi:
- Bà cũng như tôi,
có ai muốn chuyện xảy ra như thế này đâu. Chỉ
thương thằng Phụ nhà tôi,
hơn ba chục tuổi đầu rồi mà vẫn còn chịu cảnh hẩm hiu.
Chỗ đi lại thân
tình từ ngày còn ông cụ, xin bà chước
cho món tiền trả của.
Nói
xong, ông lim dim mắt nhìn ra ngoài vườn đầy nắng
gió. Vẫn là thứ gió
hiền hòa, nhẹ nhàng phe phẩy ngọn cau, giậu hoa râm
bụt, thứ gió đã đón
tôi ngày nào tôi sang chơi với anh đỏ Phụ.
Không trả được của
cho ông Biếm, mẹ tôi tính sang một chuyện
khác, hy vọng có thể làm
nguôi ngoai được nỗi lòng anh Phụ. Dạo đó, mẹ
tôi quen biết một nhà
thuyền chuyên đến khắp nẻo bến chợ, buôn bán, đổi
chác các mặt hàng.
Chủ thuyền là một bà trước đây ở thị xã,
có một cô gái lớn chưa chồng.
Họ cần một tay chèo lái. Dịp may hiếm có, mẹ
tôi giới thiệu anh đỏ Phụ.
Thoạt đầu, anh không bằng lòng. Mẹ tôi cố nói
vào để anh xiêu lòng dần:
-
Anh chịu khó xuống thuyền với họ. Họ là những người
làm ăn thật thà,
may ra anh cũng có phận nhờ. Con Yên nó không
lấy được anh là một thiệt
thòi cho nó lắm. Anh phải thương lấy ông cụ, thương
lấy anh.
Mẹ
tôi đã tính toán và xếp đặt rất
khéo. Anh đỏ Phụ đến sống trong khoang
thuyền chật hẹp, làm sao khỏi có những "ra đụng
vào chạm" với cô gái
con bà chủ? Trước lạ, sau quen, huống hồ anh Phụ lại là
người cần cù,
chịu thương, chịu khó, thì sớm hay muộn, lửa gần rơm
lâu ngày cũng bén.
Cuộc
đời sông nước của người con trai xã Hòa Trường bắt
đầu từ đó. Đã nhiều
canh gà lạ eo óc trên những bến sông xa.
Đã nhiều lần sao hôm, sao mai
thay nhau hiện ra rồi lịm tắt. Nhưng hình bóng anh đỏ Phụ
vẫn còn
nguyên vẹn trong ký ức tôi, thấp thoáng
bên kia hàng rào cây ruối, mỗi
lần anh đến nhà tôi. Cũng như còn nguyên vẹn
cái vẻ hớt hải của chị
Yên, khi chị nắm chặt cánh tay tôi lần chót,
rồi vội vã bỏ ra đi vào
một buổi sáng còn chưa rõ mặt người.
Chị Yên! Chị đi đâu đấy?
Tại sao tôi không đủ can đảm nói thật tất cả cho anh
đỏ Phụ biết? Tôi
không dám nói ra vì đó là sự
thật! "Có những sự thật không nên nói ra",
ai đã viết nên câu chân lý đó?
Tôi mong cho con thuyền đưa anh
Phụ trên các triền sông được thuận buồm, xuôi
gió, cuộc đời anh được
bình an ghé lại một bờ bến yêu thương. Mẹ tôi
có lần vui vẻ nói với
chúng tôi:
- Thằng cha đỏ Phụ tưởng không gặp may, thế mà lại
hóa ra tốt số. Thôi thì cũng mừng cho nó.
Nhưng
mẹ tôi mừng hơi vội, vì một hôm, bất ngờ, anh đỏ Phụ
đã trở lại. Anh
không còn là anh đỏ Phụ ngày nào nữa.
Nước da anh đã sạm nắng gió. Anh
gầy đi trông thấy, đôi mắt đăm chiêu mỏi mệt. Chỉ
khác trước đây là anh
đã có thêm bộ quần áo bằng vải thô
nhuộm mầu chàm xanh lơ như mầu sông
nước.
Anh trở về, nhưng không còn ghé lại nhà
chúng tôi như bao
nhiêu lần trước nữa. Trong ba gian nhà lá thừa tự,
bên cạnh người bố
già, anh sống lùi lũi như một chiếc bóng cô
đơn. Đã tắt hẳn cái giọng
kể chuyện Kiều kéo dài và buồn man mác.
Ngay cả tôi là người anh vẫn
từng tỏ ra trìu mến, anh cũng tìm cách lánh
mặt, hôm tôi đến gặp anh,
trước khi lên đường ra thị xã học tiếp. Tuy anh
không hé môi nói vì sao
anh bỏ mẹ con bà chủ thuyền để trở về với cái xã
Hòa Trường heo hút
này, nhưng chúng tôi đều biết rằng, một lần nữa,
đời anh lại "đứt
gánh". Con thuyền buôn ghé lại ăn hàng
trên các bến sông, đã thay chủ,
và người chủ thuê mướn anh cũng đã thay
lòng. Không còn chuyện "lửa gần
rơm" như hôm nào mẹ tôi từng mong ước cho anh đỏ
Phụ, cho chú rể hờ.
*
* *
Tôi
ra tỉnh vừa học, vừa làm "gia sư" cho một nhà hàng
cơm sát ngay ga xe
lửa thị xã. Tại đây, có nhiều toán người
thay nhau đến ăn cơm và ngủ
trọ. Hầu như ngày nào cũng diễn ra những quang cảnh lạ
lùng: những đợt
mộ phu đi đất đỏ cao su và sang Tân thế giới. Những
tên cai mộ phu lỳ
lợm, mặt cắt không ra một giọt máu, mở túi bạc trả
tiền mua người theo
một giá ấn định, sau khi đã cầm từng ngón tay bắt
lăn và điểm chỉ lên
tờ giấy cam đoan đóng sẵn con dấu nhà thầu: mười đồng một
đầu phu sang
Tân thế giới và năm đồng đến đất đỏ Nam Kỳ. Chỉ sau một cử
chỉ khô, gọn
là nhận số tiền định mạng, con người chợt thấy hoang mang, nghe
như có
nhát dao nào cắt đứt lìa mình khỏi cuộc đời
quen thuộc, khỏi thân
thích, quê hương.
Một hôm, đang đứng chứng kiến cảnh đau lòng kia, tôi
bỗng giật mình nghe có tiếng ai gọi:
- Cậu! Cậu út!
Tôi
đưa mắt tìm: anh đỏ Phụ! Bên cạnh anh là người chị
gái nghe tin em đi
phu, nên vội ra thị xã tiễn chân. Tôi chạy lại
với anh. Anh vẫn mặc bộ
quần áo xanh lơ màu sông nước, chỉ khác
là phía trên ngực, vừa đính
thêm một mảnh vải trắng mang hàng chữ số phu phen!
Tôi nghẹn ngào hỏi
anh:
- Anh đi đâu đấy anh Phụ? Sao anh lại ở đây?
Anh đưa ống tay áo lên gạt nước mắt, trả lời tôi:
- Tôi đi phu Tân Thế Giới cậu ạ. Ra đây tìm
mãi không được việc làm. Thôi thì cũng
liều một chuyến, có người, có ta, lo gì!
Từ
phút gặp lại nhau, anh đỏ Phụ và tôi không
lúc nào còn muốn rời nhau ra
nữa. Cả hai chúng tôi cùng nằm chờ tàu
ngoài sân ga, suốt một đêm dài.
Chúng tôi yên lặng nhiều hơn là nói
chuyện, những câu chuyện ngày xưa
vô cùng, vô tận, nhưng lại đứt đoạn, rời rạc,
vì tâm trạng chúng tôi
đang ở vào một cực độ hoang mang. Cũng như tôi, anh Phụ
tránh không
nhắc đến tên chị Yên, tuy anh có hỏi thăm mẹ
tôi.
Đêm đó, tôi
mong cho con tàu đừng đến, mong anh Phụ đổi ý, trở về.
Nhưng tất cả chỉ
là ước mơ hờ hão. Anh đỏ Phụ đã lăn tay, đã
điểm chỉ rồi. Anh đã dúi
vào bàn tay người chị gái tờ giấy bạc con
công năm đồng, nửa số tiền
bán đời mình để gửi về phụng dưỡng bố.
Và con tàu đang lù lù
tiến đến, sau một hồi còi thét lên, xé ruột.
Anh đỏ Phụ đứng bật dây.
Tôi ôm ghì lấy anh, khóc nức nở. Một
bàn tay chắc nịch kéo tôi ra, ấn
anh Phụ và toán phu vào trong cái toa sắt
đen ngòm, cái toa thường ngày
vẫn dùng chở súc vật, khóa lại.
Khi đoàn tàu lừ lừ chuyển bánh,
từ giữa đám người còn hoang mang, ngơ ngác, chị
gái anh đỏ Phụ vụt lao
ra, đâm bổ chạy theo tàu, chạy theo em, chạy thật nhanh,
gào khóc, vẫy
gọi, như muốn giằng lại khối thép, cho đến khi đứt hơi, chị nằm
ngã vật
xuống bên đường.
Con tàu mở hết tốc lực, phun khói mịt mù.
Từ phút đó, không bao giờ tôi còn gặp
lại anh đỏ Phụ nữa.
10 - 1941
Hồ Dzếnh - Tác phẩm chọn lọc.
Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1989.
|
|
|
|