Hướng về Phương
Bắc hay Phương Tây ?
Minh Vũ Hồ Văn
Châm
Nước Việt Nam thuộc vùng Viễn Đông,
nằm ở góc đông nam lục địa châu Á , bên
trên đường xích đạo.
Phía
bắc Việt Nam là nước Tàu (Chine, China), thường được gọi
một cách
trang trọng hơn là Trung Quốc. Phía tây Việt Nam
là các nước Tiểu Tây Dương và
Đại Tây Dương. Các nước Tiểu Tây Dương chủ yếu
là bán đảo Ấn Độ, xưa ta quen
gọi là Thiên Trúc hay Tây Trúc, nay
là các nước India, Pakistan, Nepal,
Bangladesh v.v., mà cư dân thường được giới bình
dân nước ta gọi là Tây Đen,
Tây Chà. Các nước Đại Tây Dương ở xa hơn về
phía tây, cư dân được người nước ta
gọi là Tây Trắng, gồm chủ yếu là Anh, Pháp,
Đức, Hòa Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha v,v, (tức là Tây Âu), và Nga, Tiệp Khắc,
Ba Lan, Hung Gia Lợi v.v. (tức là
Đông Âu). Gần đây, Việt Nam lại có thêm
nhiều liên hệ với Hoa Kỳ và Gia Nã Đại
(tức là Bắc Mỹ), và mặc dù có thể đến
các nước ấy theo hướng tây hay hướng
đông, người nước ta vẫn xem Bắc Mỹ thuộc khối các nước Đại
Tây Dương.
Suốt chiều dài lịch sử từ khi lập quốc
cho đến ngày nay, Việt Nam luôn luôn ở cái
thế bị níu kéo từ hai phía bắc và
tây. Hấp lực phương bắc là từ Trung Quốc. Hấp lực phương
tây thời cổ đại là từ
Ấn Độ, thời cận kim là từ Tây Âu, và hiện nay
là từ khối Đại Tây Dương, bao gồm
Tây Âu, Đông Âu và Bắc Mỹ. Việc tranh
dành ảnh hưởng giữa phương bắc và phương
tây thời cổ đại không gay gắt như từ thời cận kim đến nay.
Trung Quốc bành
trướng ảnh hưởng vừa bằng quân sự vừa bằng văn hóa. Ngược
lại, Ấn Độ chỉ xâm
nhập xã hội Việt Nam thuần một mặt văn hóa mà
thôi. Kết quả là văn hóa Ấn Độ
phải lùi bước trước văn hóa Trung Quốc, và Việt
Nam hoàn toàn hướng về phương
bắc để trở thành mũi dùi bành trướng của văn
hóa Trung Quốc trên bán đảo Đông
Dương. Nhưng từ khi người Bồ vững chân ở Đàng Trong
và người Hòa Lan vững chân
ở Đàng Ngoài thì cuộc tranh dành ảnh hưởng
giữa phương bắc và phương tây trở
nên mỗi ngày một thêm gay gắt mặc dầu Việt Nam vẫn
một lòng một dạ hướng về
phương bắc. Đến cuối thế kỷ 19, khi người Pháp nhập cuộc,
dùng quân lực phát
động chiến tranh xâm lược, thiết lập nền đô hộ lên 3
xứ Đông Dương, ảnh hưởng
của Trung Quốc phải từng bước nhường chỗ cho ảnh hưởng của phương
tây về tất cả
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Sang thế kỷ 20, từ sau Đệ nhị Thế
chiến, người Pháp mất thế độc tôn ở Đông Dương,
người Tàu có nhiều cơ hội gây
lại ảnh hưởng, Tàu Tưởng vào những năm 1945-1946,
Tàu Mao từ 1949 đến nay, phe
phương tây lại có thêm người Nga, người Mỹ, cuộc
tranh giành ảnh hưởng tại Việt
Nam giữa phương bắc và phương tây ở vào thế giằng
co, bất phân thắng phụ.
Trước thềm thế kỷ 21, nhìn lại quá
khứ, phân tích tương quan ảnh hưởng của phuơng bắc
và phương tây đối với Việt
Nam để rút tỉa kinh nghiệm của các bài học lịch
sử, chúng ta đặt vấn đề là Việt
Nam ngày nay nên hướng về phương bắc hay là phương
tây? Chủ động hướng về
phương nào để cho dân giàu nước mạnh?
*
* *
Việt
Nam thời sơ
sử.
Những nhà viết sử, cả ta lẫn Tàu,
đều cho rằng liên hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có
từ thời sơ sử. Thực ra,
bằng chứng về mối liên hệ thuở ban sơ này không được
xây dựng trên những cơ sở
chính xác và cụ thể, mà ngược lại,
đó toàn là những câu chuyện truyền miệng
ít
nhiều có tính chất hoang đường hoặc là những điều
ghi chép có tính cách khoa
trương. Truyền thuyết Tiên Rồng nói đến chuyện cháu
ba đời vua Thần Nông đi
tuần thú phương nam, lấy vợ sinh con đẻ cháu, chuyện Đế
Lai và Lộc Tục là bà
con họ hàng, một người làm vua phương bắc, một người
làm vua phương nam, chuyện
Mẹ Âu cơ vốn là người Bắc, lấy Lạc Long Quân sinh
trăm trứng nở trăm con trai,
muốn đem 50 con trở về bắc nhưng bị Hoàng Đế đem binh cản trở,
tất cả những
chuyện đó đều nhắm vào chủ điểm là nhấn mạnh đến
liên hệ huyết thống giữa hai
dân tộc Việt Nam và Trung Quốc. Sử Tàu cũng
chép chuyện đời nhà Chu, sứ bộ Việt
Thường đem dâng chim trĩ trắng, chim nhớ quê hương cứ
tìm cành nam mà đậu, chủ
ý khoa trương muốn nêu lên vị thế trung tâm
điểm của Trung Quốc, nên đem chim
Việt của miền nam làm đối trọng với ngựa Hồ của đất bắc (Ngựa Hồ
trông ải bắc,
Chim Việt đậu cành nam). Phải đợi đến khi Tần Thủy Hoàng
đem quân vào đất Lục
Lương, xâm lấn bờ cõi của cư dân Bách Việt,
liên hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
mới có những dữ kiện cụ thể. Nhà Tần vừa diệt xong
sáu nước, thống nhất Trung
Quốc (Lục vương tất, tứ hải nhất), năm 214 trước Công
nguyên, đem quân tiến
chiếm đất đai Bách Việt dễ dàng như chẻ tre, nhưng
đã không khuất phục được
nhân dân Bách Việt. Người Việt rút vào
rừng núi và trong nhiều năm trời đã tiến
hành một cuộc kháng chiến dai dẳng và ác
liệt với những thủ lĩnh can trường như
Dịch Hu Tống, Tây Vu Vương, khiến cho mười vạn quân Tần
và chủ tướng Đồ Thư
phải vong mạng, chiến dịch xâm lược Bách Việt của
nhà Tần thất bại hoàn toàn.
Sự kiện lịch sử này cho thấy giữa dân Bách Việt
và dân Hoa Bắc không có chút
liên hệ huyết thống nào cả, và vào buổi ban
sơ, Việt Nam cổ đại không hề hướng
về phương bắc. Đến như việc Triệu Đà nổi lên cát cứ
ở Phiên Ngung (gần Quảng
Châu), thôn tính Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt
vào năm 207 trước Công nguyên,
thì ta cũng không thể căn cứ vào sự kiện Triệu
Đà vốn là tướng nhà Tần, quê
quán ở Chân Định, Hoa Bắc, để mà nói rằng
nước Nam Việt của Triệu Đà hướng về
phương bắc. Sự thực là Triệu Đà cũng như con cháu
của Triệu Đà và triều đình
Nam Việt đã tận tuỵ phục vụ quyền lợi của nhân dân
Nam Việt. Phản ứng lại chính
sách kỳ thị của bà Lữ Hậu nhà Hán cấm
dân Hán không được bán trâu bò
và nông cụ
bằng sắt cho dân Việt, năm 183 trước Công nguyên,
Triệu Đà đã xưng đế hiệu và
đem quân đánh quận Trường Sa. Năm 181 trước Công
nguyên, nhà Hán sai tướng đem
quân cứu viện Trường Sa và tiến đánh Nam Việt,
nhưng quân tướng nhà Hán đã bị
Triệu Đà đánh bại, nhục nhã chạy về. Vua Văn Đế
nhà Hán đã cử Lục Giả mang
chiếu thư sang Nam Việt giảng hòa, nhìn
nhận rằng toàn bộ cư dân và lãnh thổ từ Phục
Lĩnh (Ngũ Lĩnh) trở về nam là
thuộc Nam Việt, hoàn toàn do vua Nam Việt liệu lý.
Năm 112 trước Công nguyên,
Tể Tướng Nam Việt là Lữ Gia đã đem cấm binh vào
cung giết Ai Vương, Cù Thái Hậu
và sứ thần nhà Hán là An Quốc Thiếu
Quý vì những người này âm mưu dâng Nam
Việt
cho nhà Hán. Rõ ràng là Nam Việt
đã chống lại hấp lực từ phương bắc.
Việt
Nam thời Bắc
thuộc: sự thắng thế của ảnh hưởng phương bắc.
Năm 111 trước Công nguyên, Hán Vũ Đế
sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem quân đánh
chiếm Nam Việt, lập ra Giao Chỉ Bộ
gồm có 9 quận là Nam Hải, Uất Lâm, Thương
Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam, Châu Nhai và Đạm Nhĩ. Từ đó, nước ta bị
người Tàu đô hộ hơn một nghìn
năm. Tuy đã có rất nhiều cuộc nổi dậy để giành lại
quyền tự chủ, nhưng những nỗ
lực đó của dân ta trước sau đều bị người Tàu
đàn áp. Mãi đến năm 939 sau Công
nguyên, Ngô Quyền đánh tan thủy quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng, tiếp đến năm
968 sau Công nguyên, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ
quân, thống nhất non sông về
một mối, lập ra nước Đại Cồ Việt, dân ta mới dứt khoát
chặt đứt xiềng xích nô
lệ của người Tàu. Trong khoảng thời gian dài hơn một
nghìn năm Bắc thuộc, đã
phát sinh những dữ kiện quan yếu sau đây. Thứ nhất
là đã có sự pha trộn huyết
thống giữa dân Việt cổ và dân Hán Hoa Bắc để
hình thành dân Việt ngày nay, bằng
cớ là dân Việt ngày nay ở đồng bằng rất khác
biệt với dân Mường ở miền núi vốn
là bà con họ hàng với dân Việt cổ, và
sự hiện diện với tỷ lệ cao hơn 50% của
các từ Hán Việt phát âm theo thổ ngữ Trường
An (kinh đô các triều Hán Đường)
trong ngôn ngữ Việt Nam. Thứ hai là sự chia cắt Giao Chỉ
Bộ thành Giao Châu và
Quảng Châu dưới triều Ngô Tôn Hạo, để rồi mỗi
châu tiến hóa theo những phương
hướng khác nhau, Giao Châu về sau độc lập trở thành
nước Đại Việt, Quảng Châu
hoàn toàn bị Hán hóa đến độ người Quảng
Đông ngày nay cứ tưởng mình là người
Hán mặc dù bị người Hán Hoa Bắc nhạo báng
rằng không nói được quan hỏa đúng
giọng (thiên bất phạ, địa bất phạ, chỉ phạ Quảng Đông
nhân thuyết quan hóa).
Thứ ba là, tuy rằng đại đa số quan lại của chính quyền
đô hộ là tham tàn hung
hiểm, vẫn có một số tận tụy phục vụ quyền lợi thuộc địa, nhất
là trong những
giai đoạn loạn lạc ở chính quốc, như cha con, anh em Sĩ Nhiếp
đã kế tục nhau
giữ cho Giao Châu được yên ổn, Cao Biền đắp thành
Đại La để phòng ngự Giao Châu
tránh khỏi nạn cướp bóc của quân Nam Chiếu, được
dân chúng cảm phục và tôn sùng
(Sĩ Vương, Cao Vương). Thứ tư là di dân từ chính
quốc sang Giao Châu không chỉ
thuần túy gồm có lưu dân, tội đồ và
thú binh nghèo khổ, mà gồm cả quan lại mãn
nhiệm tự nguyện ở lại thuộc địa, và nhất là sĩ phu
và thương nhân tránh loạn
lạc ở chính quốc tìm đến Giao Châu là nơi
tương đối yên ổn để định cư lập
nghiệp, khiến cho Giao Châu văn vật hẳn lên, như lời Vương
Bột xưng tụng trong
bài Đằng Vương các tự (Gia quân tác tể, lộ
xuất danh khu; đồng tử hà tri, cung
phùng thịnh tiển). Thứ năm là các lãnh tụ
nổi lên chống đối chính quyền đô hộ
không phải chỉ thuần túy là dân gốc địa
phương như Hai Bà Nữ Vương họ Trưng,
Bua Cái (Đại Vương) họ Phùng, Hắc
Đế
Mai Thúc Loan, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh, mà gồm cả
những người gốc gác từ
chính quốc như Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Dương
Thanh, Khúc Thừa Dụ, một dữ kiện
quan yếu chứng tỏ động cơ nổi dậy không phải đơn thuần là
chống áp bức mang
tính chất đấu tranh dân tộc, mà còn
là nhu cầu của thuộc địa mỗi ngày một lớn
mạnh muốn độc lập với chính quốc về mặt chính trị
và hành chánh. Tóm lại, trên
cơ sở những dữ kiện lịch sử quan yếu vừa liệt kê, ta có
thể rút ra hệ luận rằng
trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, trên địa bàn
Bắc bộ và Bắc Trung bộ Việt
Nam ngày nay, đã dần dà hình thành
một tập thể cư dân mới, ít nhiều còn giữ
được những đặc điểm liên quan với cội nguồn (ăn trầu, nhuộm
răng), nhưng nói
chung, trên mọi bình diện, hoàn toàn hướng
về phương bắc. Việc hướng về phương
bắc này, buổi đầu là do cưỡng bức bằng các
áp lực quân sự và hành chánh, dần
dà
về sau là do tự nguyện và trở nên triệt để đến độ
các sinh hoạt tại thuộc địa
không khác biệt gì lắm so với chính quốc,
và đến cuối thời Bắc thuộc thì nảy
sinh xu hướng muốn độc lập về chính trị và hành
chánh nhưng tự nguyện duy trì
các tương quan kinh tế, văn hóa và xã hội.
Việc hướng về phương bắc trong thời
Bắc thuộc mạnh mẽ đến độ đã đánh bạt ảnh
hưởng của phương tây (Ấn Độ), và làm thay
đổi bản chất các sinh hoạt
thường nhật cũng như các tín điều tâm linh của cư
dân bản địa. Người ta dùng
đũa gắp thức ăn, không ai dùng tay bốc. Nút
áo cài bên trái nhường chỗ cho nút
áo cài bên phải. Chữ viết thời cổ không ai
biết, chỉ còn biết chữ Hán và chữ
Nôm. Ông Bụt (Buddha, gốc Ấn Độ) trong ngôn ngữ
dân gian nhường chỗ cho Ông
Phật (âm Hán Việt của từ Pụt, A mi tà Pụt, của
Trung Quốc). Câu chuyện Tet Seo
(Lang Liệu) thời Hùng Vương chế ra bánh tét
bánh dầy cũng bị thay đổi nội dung.
Bánh tét có hình tượng sinh thực
khí, liên hệ đến tục thờ linga của Ấn Độ, đã
được bánh chưng hình vuông thay vào cho
phù hợp với vũ trụ quan trời tròn đất
vuông của Trung Quốc. Nói tóm lại, việc hướng về
phương bắc trong thời Bắc
thuộc là triệt để và toàn diện.
Việt
Nam thời tự
chủ tự nguyện hướng về phương bắc.
Bước qua thời tự chủ, từ nhà Đinh
cho đến nhà Cựu Nguyễn, Việt Nam tiếp tục tự nguyện hướng về
phương bắc. Tuy
trong thực tế, Việt Nam hoàn toàn độc lập về chính
trị và hành chánh, trên danh
nghĩa, Việt Nam vẫn tự nguyện làm phiên thuộc của Trung
Quốc. Các vua Việt Nam
nhận sắc chỉ, áo mũ, ấn tín tấn phong của Thiên tử
Trung Quốc, và cứ ba năm một
lần lại cử sứ bộ mang cống phẩm sang dâng nạp. Đối với thần
dân trong nước cũng
như đối với các lân bang phía tây và
phía nam, các vua Việt Nam xưng Vương,
xưng Đế, nhưng đối với Thiên tử Trung Quốc, các vua Việt
Nam chịu nhún xưng
thần, và nhận tước vị quận vương, quốc vương. Quốc hiệu tự xưng
là Đại Cồ Việt,
Đại Việt, Đại Nam, nhưng tước vị do Thiên tử Trung Quốc tấn phong
cho các vua
Đinh, Tiền Lê là Giao Chỉ Quận vương, Nam Bình
vương, cho các vua Lý, Trần, Hậu
Lê, Nguyễn Tây Sơn là An Nam Quốc vương, và
cho các vua Cựu Nguyễn là Việt Nam
Quốc vương. Các vua Mạc và các vua đầu đời
Lê Trung hưng chỉ được phong An Nam
Đô Thống sứ. Đã vậy, việc ép mình chịu
làm phiên thuộc cũng không phải là dễ
dàng, cũng không phải là không cam go gian
khổ. Người Tàu chấp nhận cho Việt
Nam được tự chủ chẳng qua là ở trong cái thế không
giết được thì tha làm phúc,
chứ trong thâm tâm, lúc nào cũng ấp ủ
cái mộng tái chiếm thuộc địa, thiết lập
lại các quận huyện ngày trước. Do đó, Lê
Hoàn chỉ được phong sau khi giết chết
Hầu Nhân Bảo ở Ải Chi Lăng, và đánh bại Lưu Trừng
trên sông Bạch Đằng; Lê Lợi
chỉ được phong sau khi giết chết Liễu Thăng ở đồi Mã Yên
và vây khốn Tổng Binh
nhà Minh Vương Thông trong thành Đông Quan;
Nguyễn Huệ chỉ được phong sau khi
bức tử Sầm Nghi Đống ở gò Đống Đa và đuổi Tổng Đốc Lưỡng
Quảng nhà Thanh là Tôn
Sĩ Nghị chạy dài. Tuy là phiên thuộc trên
danh nghĩa, Việt Nam hoàn toàn độc
lập về chính trị và hành chánh. Trung Quốc
cũng không can thiệp vào nội bộ của
Việt Nam, ngoại trừ trường hợp vua Việt Nam tỏ ra cường ngạnh
không chịu thần
phục (Hồ Quý Ly), hoặc Trung Quốc được lợi lớn vì vua
Việt Nam tỏ ra qụy lụy nhượng
bộ quá mức (Mạc Đăng Dung). Mặt khác, về các
phương diện kinh tế, văn hóa, xã
hội, Việt Nam lại tự nguyện hướng về phương bắc, mặc dù chẳng
có một áp lực nào
thúc ép. Việt Nam dùng chữ Hán làm
văn tự chính thức. Sĩ tử ngày đêm dùi
mài tứ
thư ngũ kinh của Trung Quốc. Trong câu chuyện thù tạc hằng
ngày giữa những
người có đôi chút chữ nghĩa, Hán tự cũng
được dùng xen vào (nói chữ). Vào những
dịp hệ trọng liên quan đến vận mạng quốc gia, vua tôi
bàn bạc, dặn dò, đối dáp
với nhau cũng bằng Hán tự. Chữ nôm, một biến thể của
Hán tự dùng để ghi âm
tiếng bản địa được sáng chế từ thời bắc thuộc, tuy được tiếp tục
hoàn bị trong
thời kỳ tự chủ, nhưng cũng chỉ được sử dụng hạn chế, chủ yếu là
để làm thơ phú
mua vui, chứ không được giới sĩ phu xem trọng (nôm na
mách qué), ngoại trừ dưới
các triều đại Hồ và Nguyễn Tây Sơn. Cũng như dưới
thời bắc thuộc, ảnh hưởng
phương tây (Ấn Độ) hoàn toàn bị đánh bật ra
khỏi đời sống văn hóa và xã hội
Việt Nam. Hơn thế nữa, Việt Nam lại tự nguyện làm mũi dùi
xung kích cho văn hóa
Trung Quốc, khiến cho văn hóa Ấn Độ mỗi ngày một thu hẹp
địa bàn ảnh hưởng trên
bán đảo Đông Dương trước bước chân nam tiến của
dân tộc Việt Nam. Nói tóm lại,
Việt Nam trong thời kỳ tự chủ hoàn toàn hướng về phương
bắc. Việc hướng về
phương bắc này triệt để và toàn diện cho đến khi
người phương tây da trắng bắt
đầu đến Viễn Đông buôn bán và truyền đạo.
Ảnh
hưởng của việc
người Tây Dương đến Viễn Đông.
Thực ra thì người Tây Dương đã đến
Viễn Đông từ những thời rất xa xưa, ban đầu theo con đường hương
liệu dọc bờ
biển Nam Á, băng qua Ấn Độ để đến Đông Dương, và về
sau theo con đường tơ lụa
xuyên qua các đồng cỏ Trung Á, băng ngang sa mạc
Mông Cổ để đến Trung Quốc.
Chứng tích của các dữ kiện lịch sử này là
việc phát hiện các đồng tiền La Mã
tại di chỉ khảo cổ Óc Eo ở Nam Bộ Việt Nam, việc người Nhục Chi
đem văn minh
Hồi giáo đến khai hóa cư dân quần đảo Indonesia,
việc người Ý Marco Polo làm
quan tại Triều đình Mông Nguyên Trung Quốc. Tuy vậy,
phải đợi đến các thế kỷ
16, 17, với các tiến bộ trong kỷ thuật đóng tàu
và phát triển vượt bực của
ngành hàng hải, người Âu châu tìm đến
Viễn Đông buôn bán và truyền đạo mỗi
ngày
một nhiều, Việt Nam mới bắt đầu tiếp xúc thực sự với phương
tây Vào thời điểm
này, người Anh, người Pháp đã đặt cơ sở ở Ấn Độ,
người Hòa Lan đã vững chân ở
Batavia, người Tây Ban Nha đã chiếm cứ Maní, người
Bồ Đào Nha đang kinh dinh
Penang, Macao, Nagazaki, do đó, Việt Nam cũng mở cửa đón
tiếp thương thuyền Tây
Dương: Đàng Ngoài tại Phố Hiến, Đàng Trong tại Hội
An.
Trong số những thương nhân và giáo
sĩ Tây Dương lui tới Việt Nam lúc bấy giờ, đáng lưu
ý hơn cả là người Hòa Lan
và người Bồ Đào Nha. Người Hòa Lan thân
thiện với Đàng Ngoài, bán súng đạn cho
quân đội chúa Trịnh, và một người con gái
Hòa Lan lại được tuyển làm cung phi
cho vua Lê Thần Tông. Người Hòa Lan còn ngầm
yểm trợ chúa Trịnh đánh chúa
Nguyễn, gây ra mối bất hòa với Đàng Trong, khiến
nẩy sinh ra trận thủy chiến
đầu năm 1644 giữa hạm đội Hòa Lan do Pieter Baek chỉ huy
và hải quân Đàng Trong
dưới sự tiết chế của Thế tử Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) ở
ngoài khơi Đà Nẵng.
Người Bồ Đào Nha ngược lại, tuy bán súng đạn cho
quân đội Đàng Trong, cũng như
thân thiện với chính quyền Dàng Trong hơn, nhưng
vẫn giữ được hòa khí với Đàng
Ngoài, do đó, người Bồ Đào Nha đi lại buôn
bán và truyền đạo ở cả hai miền nam
bắc. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã tìm
cách ghi âm tiếng Việt theo cả hai giọng nam
bắc và đã xây dựng được nền tảng cho lối viết tiếng
Việt theo mẩu tự La tinh.
Công trình này về sau được giáo sĩ người
Pháp Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) hoàn
chỉnh và trở thành văn tự chính thức của người
Việt Nam ngày nay.
Khác với trường hợp người Hòa Lan và
người Bồ Đào Nha, công việc buôn bán của
người Anh ngay từ buổi đầu đã không
được thuận lợi cho lắm. Người Anh chuyên tâm vào
việc trao đổi hàng hóa để kiếm
lợi, trong lúc các chúa Trịnh chúa Nguyễn
lại muốn người Tây Dương đem súng đạn
đến bán để canh tân quân đội hòng khuynh
loát đối phương, mục tiêu hai bên
không tương đồng nên việc giao thiệp mỗi ngày một
lạnh nhạt. Gia dĩ, người Anh
lại ỷ thế mạnh không tôn trọng chủ quyền bản xứ, tự tiện
chiếm cứ đảo Poulo
Condore năm 1702 để lập thương điếm, khiến cho Trấn Thủ Trấn Biên
là Trương
Phước Phan phải dùng mưu cho người Chà Và
trà trộn vào làm việc cho thương điếm
rồi thừa cơ nổi lửa làm loạn, giết chết hết các thương
nhân người Anh. Cuối
thời Trịnh Nguyễn phân tranh, người Anh không còn
có thương điếm ở Việt Nam
nữa. Mãi đến khi Tây Sơn nổi lên, người Anh Charles
Chapman có tìm đến Qui Nhơn
thương lượng việc buôn bán, Nguyễn Nhạc nhân
đó cũng muốn người Anh giúp đỡ
súng đạn tàu thuyền để mưu chuyện làm chủ
Đông Dương, nhưng việc thương thuyết
chẳng đi đến đâu. Sau khi Gia Long thống nhất Việt Nam, người Anh
lại phái sứ
giả là Robert mang phẩm vật đến Huế năm 1803 để xin mở thương
điếm ở Trà Sơn
(Đà Nẵng), nhưng bị Gia Long từ chối.
Về
phần người Pháp, cũng như người Anh, người Pháp rất
chú ý đến đảo
Poulo Condore, nhưng những nỗ lực của Pháp để thiết lập thương
điếm tại nơi đây
(Renault năm 1721, Pierre Poivre năm 1748, Protais Leroux năm 1755) đều
không
có kết quả. Cũng như người Bồ, người Pháp chuyên
chú vào việc truyền đạo xuyên
qua hoạt động tích cực của Hội Dòng Tên (Jesuites)
và Hội Ngoại Quốc Truyền
Giáo (Missions Étrangères), khiến cho các
chúa Trịnh chúa Nguyễn e ngại cho uy
thế của mình mà đâm ra nghi kỵ, (nhất là sau
khi Giáo Hoàng Clément XI ban hành
sắc lệnh năm 1715 cấm ngặt việc thờ cúng tổ tiên), đưa đến
kết quả không hay là
việc cấm đạo ở cả Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong
vào cuối thế kỷ 17 và suốt thế kỷ
18. Mãi đến khi chiến cuộc giữa Tây Sơn và Nguyễn
Ánh xẩy ra, người Pháp mới có
dịp dự phần vào việc gây ảnh hưởng trở lại tại Việt Nam
qua vai trò của Giám
mục Adran là Pierre Joseph Georges Pigneau (Bá Đa Lộc).
Giám mục Adran với tư
cách cá nhân đã giúp Nguyễn
Ánh đóng tàu, đúc súng, xây
thành, chuyên viên kỹ
thuật, cố vấn quân sự, để đánh thắng Tây Sơn. Sau
khi Gia Long lên ngôi, nhiều
người Pháp ở lại làm quan tại Triều đình Huế.
Nhưng đến đời Minh Mạng, Việt Nam
cấm đạo trở lại, các quan chức người Pháp cũng lần lượt
bỏ về nước. Đến cuối
đời Tự Đức thì người Pháp liên binh với người
Tây Ban Nha tiến đánh Đà Nẵng, mở
đầu cuộc chiến tranh xâm lược mấy mươi năm trời, và việc
Pháp đô hộ Đông Dương
gần cả thế kỷ.
Nói tóm lại, trong giai đoạn thứ hai
này của thời kỳ tự chủ, từ lúc người Tây Dương
vào buôn bán và truyền đạo ở
Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong nước Đại Việt, cho đến
lúc người Pháp đặt nền đô hộ
và chia cắt nước Đại Nam thành ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ
và Nam Kỳ, Việt Nam vẫn
tiếp tục hướng về phương bắc trên mọi bình diện
chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội. Ảnh hưởng phương tây chỉ xẩy ra những khi
có tranh chấp nội bộ bằng
binh lực, và giới hạn trong việc mua bán đạn dược, kỹ
thuật đúc súng, đóng tàu,
xây dựng thành lũy. Những nhu cầu nhất thời này
đương nhiên kéo theo một vài
đặc quyền dành cho người Tây Dương như việc cấp đất lập
thương điếm, việc cho
phép các giáo sĩ tự do đi lại giảng đạo. Nhưng một
khi không còn chiến tranh
nội bộ, nghĩa là không còn nhu cầu nhờ vũ
khí phương tây để canh tân quân đội
trong mục tiêu khuynh loát đối thủ, thì ảnh hưởng
phương tây cũng theo đó mà mờ
nhạt đi. Thực vậy, sau khi Trịnh Nguyễn giảng hòa, lấy
sông Gianh phân chia địa
bàn cát cứ, hay sau khi Gia Long thống nhất đất nước,
lên ngôi vua ở Phú Xuân,
việc buôn bán của người Tây Dương dần dà gập
nhiều điều trở ngại để rồi thương
điếm phải dẹp bỏ, và việc cấm đạo Gia Tô mỗi ngày
một trở nên gay gắt. Chỉ có
một biệt lệ cho sự kiện lịch sử này là việc các
vua chúa Việt Nam tiếp tục tin
tưởng vào khả năng chửa bệnh theo tây y, như chúa
Thế Tông lưu giữ giáo sĩ
Koffler ở lại làm thầy thuốc cho chúa và việc vua
Quang Trung nhờ thầy thuốc
người Âu chửa bệnh cho Chính cung Hoàng hậu họ
Phạm. Ngoài hai nhu cầu về kỹ
thuật quân sự và y học khiến Việt Nam vào thời kỳ
này hướng về phương tây, trên
các lãnh vực khác, Việt Nam nhất nhất hướng về
phương bắc. Ngay như việc Quang
Trung dùng chữ nôm thay Hán tự, mới nghe qua
thì tuởng như là một sự canh cải
mang tính cách dân tộc trong chiều hướng muốn vươn
lên để thoát khỏi vòng lệ
thuộc phương bắc, nhưng xét cho cùng thì việc
dùng chữ nôm vào thời Quang Trung
không có chung bối cảnh lịch sử với việc dùng chữ
nôm thời Hồ Quý Ly. Chữ nôm
thoát thai từ chữ Hán, muốn đọc chữ nôm, trước hết
phải đọc được chữ Hán. Thời
Quang Trung đã có chữ quốc ngữ. Muốn bớt lệ thuộc phương
bắc về văn hóa, sao
không dùng ngay chữ quốc ngữ? Muốn giảm thiểu áp
lực từ phương bắc, sao không
bắt ngay cơ hội trước mắt để cấp kỳ hướng về phương tây, canh
tân xứ sở như sau
đó nguời Nhật Bản đã làm? Đến việc Gia Long dần
dà lạnh nhạt với những người Pháp
đã giúp mình lật đổ Tây Sơn, không
tiếp phái viên của vua Louis XVIII là thuyền
trưởng A. de Kergariou, từ chối nhận cống phẩm của người Anh Robert
mang đến
Huế để xin mở thương điếm Trà Sơn, rập khuôn luật
pháp, quan chế, học thuật của
người Tàu Mãn Thanh, thì rõ ràng xu
hướng phục Tàu, theo Tàu, đã trở thành căn
bệnh cố hữu, và lòng ngờ ghét người Tây
Dương mỗi ngày một gia tăng. Việc Đông
Cung Cảnh nông nổi đập phá bàn thờ gia tiên
không những đã mang lại hậu quả tất
yếu là con ngài không được nối ngôi
tôn, mà còn khiến cho Gia Long lúc lâm
chung trăn trối với Minh Mạng rằng phải cảnh giác dã
tâm trục lợi của người Tây
Dương và mầm mống phản loạn của dân theo Ki tô
giáo. Nhưng sự kiện này chỉ là
trong muôn một những nguyên nhân đưa đến chính
sách bế môn tỏa cảng và cấm đạo
từ đời Minh Mạng trở về sau. Nguyên nhân chủ yếu vẫn
là tinh thần cố hữu một
lòng một dạ hướng về phương bắc, cho rằng thiên hạ văn
minh chỉ có mỗi một nước
Tàu. Chứng cớ là cuối đời Tự Đức, nhà
vua và đình thần cứ khư khư theo nề nếp cũ, bám
chặt các tư tưởng thủ cựu bắt
rể từ văn hóa Trung Quốc, bỏ ngoài tai các đề nghị
cải cách theo phương tây,
thậm chí khi quân Pháp đã toàn thắng
cuộc chiến tranh xâm lược, “cửa Thuận an
Tây lấy, Trấn Bình đài Tây vô”, Tự Đức
vẫn còn cử sứ bộ sang Tàu cầu viện,
những mong dựa vào áp lực từ phương bắc để chống lại
áp lực từ phương tây.
Việt
Nam thời Pháp
thuộc: sự thắng thế của ảnh hưởng phương tây.
Nhưng nước Tàu lúc
này đang suy yếu, tự mình không cứu nổi mình
thì
còn hòng che chở cho ai! Bởi vậy, sau những nổ lực vận
động không kết quả của
sứ thần nhà Thanh là Tăng Khải Trạch với chính phủ
Pháp Jules Ferry để lập một
quốc gia trái độn từ biên giới Quảng Tây đến Qưảng
Bình, người Tàu phải ký Hòa
ước Thiên Tân năm 1885 thừa nhận chủ quyền của Pháp
trên lãnh thổ Đại Nam. Mặt
khác, người Pháp tìm mọi cách để xóa
sạch ảnh hưởng của người Tàu trong tâm
khảm người Việt. Về mặt chính trị, xưa kia Thiên tử Trung
Quốc tấn phong vua
Việt Nam thì bây giờ Đại Diện chính phủ Pháp
chủ tọa lễ đăng quang của vua Hàm
Nghi, và cũng được hưởng đặc lệ đi cổng giữa của lầu Ngọ
môn để vào điện Thái
Hòa y như các sứ thần Trung Quốc ngày trước. Triều
đình Huế phải tiêu hủy trước
mặt Đại Diện chính phủ Pháp chiếc ấn Việt Nam Quốc Vương
nhà Mãn Thanh đã phong
cho các vua nhà Nguyễn. Về mặt ngoại giao, nước
Pháp đại diện cho Việt Nam
trong việc giao thiệp với nước ngoài. Người Pháp đắp đập
bít cửa Thuận an,
tuyệt đường tàu thuyền nước ngoài ngược dòng Hương
giang để cô lập Kinh thành
Huế. Buổi đầu, dưới thời các Đô đốc Hải quân cai
trị, người Pháp chỉ chú tâm mở
mang thành phố Sài Gòn, với chủ ý hướng về
phía tây, bành trướng thế lực lên
Lào, Cao Mên, và Thái Lan. Nhưng về sau,
dưới thời các Toàn quyền dân sự cai
trị, từ Paul Doumer (1897-1902) trở đi, người Pháp lại mở mang
thành phố Hà
Nội, chủ ý hướng về phía bắc, mưu đồ kiêm
tính các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây
và Vân Nam. Về mặt hành chánh, người
Pháp trực tiếp cai trị Nam Kỳ, chia lại
các phân hạt hành chánh; lấy các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà
Nẵng làm
nhượng địa; và đặt chế độ bảo hộ lên Bắc Kỳ và
Trung Kỳ, nghĩa là duy trì các
tỉnh, các phủ, huyện, châu và các quan lại
Nam triều (ngoại trừ tại các vùng
cao, Tri châu người Kinh được thay thế bằng các tù
trưởng bộ lạc người thiểu số),
chỉ đặt Khâm sứ, Thống sứ ở cấp kỳ, và các
Công sứ ở cấp tỉnh để điều khiển và
kiểm soát quan lại bản xứ mà thôi. Về mặt tư
pháp, bộ luật Gia Long, một bộ
luật rập khuôn theo luật Tàu, được Philastre chú
giải, và bộ Hoàng Việt luật lệ
được Aubaret dịch ra tiếng Pháp, để các quan chức người
Pháp tham khảo pháp
điển Việt Nam. Tại Nam Kỳ, hình luật và dân luật
Pháp được áp dụng ngay từ năm
1883. Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, luật lệ xưa vẫn còn được
áp dụng cho đến khi ban
bố các luật lệ mới theo tinh thần phương tây: thủ tục tố
tụng hình sự năm 1917,
hình luật năm 1921, dân luật năm 1931 tại Bắc Kỳ;
hình luật và thủ tục tố tụng
hình sự năm 1933, dân luật chia làm 3 đợt từ năm
1936 đến năm 1939 tại Trung
Kỳ. Ngoài ra lại còn những luật lệ chung cho cả 5 xứ
Đông Pháp như luật điền
thổ ban hành năm 1925 và luật lao động công bố năm
1936. Nguyên tắc phân quyền
giữa hành pháp và tư pháp được áp
dụng, cho dù có biệt lệ là việc thành lập
các
hội đồng đề hình tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ cho phép
các giới chức hành chánh can dự
vào ngành tư pháp với thẩm quyền rộng rãi
để xét xử các vụ bạo loạn chống Pháp.
Nhưng những nỗ lực hữu hiệu nhất nhằm mục đích xóa bỏ ảnh
hưởng của Tàu là về
các mặt văn hóa và xã hội. Năm 1902,
Hà Nội được chọn làm thủ đô của Đông
Pháp
và được mở mang để làm trung điểm phô trương văn
minh Đại Pháp. Các Toàn quyền
Dân sự như Paul Beau, người kế nhiệm Paul Doumer, và nhất
là Albert Sarraut, đã
lần lượt thiết lập tại Hà Nội các Nha Y tế, Nha Học
chính, Viện Đại Học Đông
Dương, Trường Viễn Đông Bác cổ; đồng thời tại Hà
Nội cũng như tại các thành phố
lớn, nhiều bệnh viện, nhà hộ sinh, chẩn y viện, trường trung
và tiểu học được
xây cất để canh tân tổ chức y tế và giáo dục
cổ truyền theo những kiến thức
khoa học kỷ thuật của phương tây. Để nhen nhúm tinh thần
chống Tàu, ghét Tàu,
xem thường Tàu, “Nha Học chính Đông Pháp
giao cho các ông Trần Trọng Kim, Bùi
Kỷ, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận” soạn sách
giáo khoa, đề cao các anh hùng dân tộc
có công đánh bại người Tàu. Thi cử và
bằng cấp được thay đổi. Bãi bỏ thi hương
năm 1915 tại Bắc Kỳ, và năm 1918 tại Trung Kỳ. Văn bằng
Thành chung (Diplôme)
được xem tương đương với Cử nhân Hán học, văn bằng
Tú tài (Baccalauréat) được
xem tương đương với Tiến sĩ Hán học. Chữ quốc ngữ được phổ cập
đến cấp tổng cấp
làng, được sử dụng trong các trường sơ và tiểu
học, được dùng trong các tờ sức
của phủ huyện gửi xuống các địạ phương thuộc quyền. Báo
chí quốc ngữ được
khuyến khích, được tài trợ. Các tạp chí
Thần Kinh ở Huế, Đông Dương, Nam Phong
ở Hà Nội, bên cạnh chữ quốc ngữ thỉnh thoảng có
chua Hán tự để các nhà nho quen
dần với lối viết mới. Hán tự dần dà chỉ còn được
dùng để viết chỉ dụ của nhà
vua, sớ biểu của đình thần, thi phú của nhà nho,
và trong việc tế tự. Việc
truyền đạo Gia tô được đẩy mạnh, giáo dân được ưu
đãi dưới thời Pháp thuộc, đó
là lẽ đương nhiên. Điều đáng lưu ý là
đạo Phật cũng được khuyến khích phát
triển: người Pháp đã yểm trợ Bác sĩ Lê
Đình Thám ở Huế tổ chức Hội Phật Học và
ấn hành nguyệt san Viên Âm. Phải chăng đây
là dụng ý cao thâm của người Pháp
muốn sĩ phu Việt Nam quên đi cái thực tế “hình nhi
hạ” quốc phá gia vong trước
mắt để hướng tất cả tâm chí về cõi siêu
nhiên cực lạc? Tóm lại, bằng nhiều hình
thức áp đặt khác nhau, tinh vi và sâu sắc,
dưới thời Pháp thuộc, ảnh hưởng khoa
học kỷ thuật phương tây đã đánh bạt ảnh hưởng văn
hóa phương bắc.
Từ Hòa ước Patenôtre ký ngày
6-6-1884 thừa nhận cuộc bảo hộ của Pháp và biến cố thất
thủ Kinh đô ngày
23-5-Ất Dậu (1885) cắm mốc sự kiện Việt Nam hoàn toàn mất
chủ quyền, đến Bản
Tuyên cáo của Triều đình Huế ngày 12-3-1945
phủ nhận Hòa ước Patenôtre, tuyên
bố Việt Nam độc lập và cắt đứt mọi liên hệ với
Pháp, tính ra vừa chẵn 60 năm.
Thời gian không đủ dài để thay đổi toàn diện lề lối
sinh hoạt thường nhật cũng
như các tín điều tâm linh của người Việt Nam như
tác động của 1050 năm Bắc
thuộc. Ngoại trừ Nam Kỳ, ảnh hưởng phương tây tại Bắc Kỳ
và Trung Kỳ khó mà len
lõi vào bên trong các lũy tre xanh, cải
hóa cung cách sinh hoạt và nề nếp suy
nghĩ của người nông dân, không những chỉ vì
thời gian lệ thuộc Pháp không đủ
dài, mà chủ yếu là vì thực trạng xã
thôn tự trị và tổ chức hành chánh hạ tầng
phải qua trung gian quan lại Nam triều và hào mục địa
phương vốn là những hạng
người thủ cựu. Ngược lại, đối với cư dân thành thị
và những người có chữ nghĩa
ở nông thôn, ảnh hưởng phương tây mỗi ngày một
đậm nét. Giới sĩ phu cựu học
nhận chân thực trạng thua trận (“Nào có ra
gì cái chữ nho, Ông nghè, ông cống
cũng nằm co”...), từ bỏ thái độ chống đối tiêu cực,
tìm đọc sách báo quốc ngữ,
và cho con cháu theo học các trường Pháp
Việt. Các nhà nho cách mạng tách rời
ý
niệm trung quân ra khỏi chủ nghĩa ái quốc, từ bỏ
các chủ trương cần vương, bình
tây sát tả (dẹp tây giết đạo), mà hô
hào duy tân, cắt búi tóc, mặc âu phục,
khởi xướng phong trào Đông du, tổ chức Đông Kinh
nghĩa thục, hoặc đi xa hơn
chút nữa, chủ trương Pháp Việt đề huề. Giới thanh
niên trí thức hăng hái theo
học các trường cao đẳng chuyên khoa; những người có
điều kiện thì tìm cách sang
Pháp du học. Những thành phần trí thức này
khi thành tài, tuy đa số phục vụ
chính quyền bảo hộ, vẫn có một số đáng kể
làm những nghề tự do, hô hào âu hóa,
đổi mới phong tục, chú trọng thực nghiệp, thành lập
các đảng chính trị nhằm mục
đích giải phóng dân tộc, cải tiến dân sinh,
xây dựng dân chủ. Giới văn nghệ sĩ
thì sử dụng chữ quốc ngữ để viết văn mới, làm thơ mới,
diễn kịch nói, kịch thơ,
và soạn nhạc mới theo kỷ thuật và giai điệu phương
tây. Nói tóm lại, dưới thời
Pháp thuộc, ảnh hưởng phương bắc phải nhường bước cho ảnh hưởng
phương tây, và
trong nửa đầu thế kỷ 20, cư dân thành thị, nhất là
trí thức tiểu tư sản, dần dà
thấm nhuần lề lối sinh hoạt và nề nếp suy nghĩ của phương
tây. Trong bối cảnh
đó, các ý niệm tự do, quyền công dân,
quyền con người, cũng như các tư tưởng
chính trị, từ dân chủ tư sản đến chuyên chính
vô sản, đã du nhập vào Việt Nam,
làm tiền đề cho việc thành lập các đảng
phái cách mạng quốc gia và quốc tế, mở
màn cho việc phân tranh ý thức hệ giữa những người
Việt Nam yêu nước từ cuối
thời Pháp thuộc cho đến nay, triền miên và bi thảm.
Việt
Nam thời liên
hiệp quốc cộng: thế yếu kém của phương bắc.
Chiến dịch Meigo tối ngày 9-3-1945
của quân đội Nhật Bản đã chấm dứt vị thế độc tôn của
người Pháp tại Đông Dương.
Đồng thời việc Đồng Minh tại Hội nghị Postdam quyết định giao cho Trung
Quốc
giải giới quân đội Nhật Bản ở phía bắc vĩ tuyến 16
đã tạo cho Trung Quốc cơ hội
gây lại ảnh hưởng đối với Việt Nam. Trước đây, chính
quyền Trung Hoa quốc gia
dung dưỡng tất cả những người Việt Nam chống Pháp trốn
tránh sang Tàu, yểm trợ
họ tổ chức lực lượng để chờ cơ hội về nước cướp chính quyền.
Những người cách
mạng Việt Nam mặc áo quần kaki nhưng không mang cấp bậc
và phù hiệu, trông ra
quan chẳng ra quan, quân chẳng ra quân, là một hiện
tượng rất thường thấy ở các
tỉnh miền nam nước Tàu, vì vậy người Tàu thường
bảo nhau: “Quan bất thị quan, quân
bất thị quân, thị An Nam cách mạng giả”. Trong Thế chiến
II, Trương Phát Khuê
giúp cho Nguyễn Hải Thần củng cố lại Việt Nam Cách Mệnh
Đồng Minh Hội ở Liễu
châu, Tiêu Văn và Ngô Trạch bảo cử cho Hồ
Chí Minh đem tiền bạc và cán bộ của
Cách Mệnh Đồng Minh Hội về Việt Bắc hoạt động tình
báo, Ngô Thiết Thành làm
trung gian để 3 đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (Phân bộ
Côn Minh), Đại Việt Quốc
Dân Đảng, và Đại Việt Dân Chính Đảng hợp nhất
thành Quốc Dân Đảng Việt Nam (Mặt
Trận Quốc Dân Đảng), cho tiện việc phối hợp các hoạt động
quốc nội và quốc
ngoại. Những sự yểm trợ này của các giới chức quân
chính Trung Quốc đều nhắm
mục đích đánh phá ảnh hưởng của người Pháp
tại Việt Nam để áp đặt trở lại ảnh
hưởng của phương bắc. Trong lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch
tại Trùng Khánh
vào cuối tháng 4 năm 1945 nhân dịp Bí Thư
trưởng Quốc Dân Đảng Trung Quốc là
Ngô Thiết Thành chiêu đãi phái
đoàn Quốc Dân Đảng Việt Nam do Nguyễn Tiến Hỷ
cầm đầu, Tưởng Giới Thạch đã nói rằng sự kiện phái
đoàn Việt Nam hiện diện tại
Thủ đô (kháng chiến) của Trung Quốc là biểu trưng
của việc Việt Nam trở về với
Trung Quốc. Sau ngày Nhật Bản đầu hàng, Lư Hán
và Tiêu Văn, do 2 ngã Vân Nam và
Quảng Tây, kéo 180.000 quân vào Bắc Việt
và Bắc Trung Việt, đi theo có các lực
lượng vũ trang của Vũ Hồng Khanh, của Nguyễn Hải Thần, của Vệ An Quốc
(Vi Văn
Lưu), của Vũ Kim Thành v.v., tất cả đều có xu hướng
thân Trung Quốc. Đến ngày
15-12-1945, Quốc Dân Đảng Việt Nam ra sinh hoạt công khai,
trụ sở trung ương
đặt tại Trường Tiểu học Đỗ Hữu Vị ở Hà Nội, thì
các lực lượng vũ trang của Việt
Nam Quốc Dân Đảng từ Tàu kéo về, và
các lực lượng vũ trang của Đại Việt Quốc
Dân Đảng rải rác khắp nước, như chiến khu Lạc Triệu,
Kép, Trường Lục quân Yên
Bái, Gi Linh (Thanh Hóa), Quảng Nam, An Điền (Nam Bộ),
đều được gọi là Quốc Dân
quân. Trong lúc quân Pháp theo gót
quân Anh trở lại chiếm đóng nhiều nơi ở Nam
Bộ và Nam Trung Bộ thì ở phía bắc vĩ tuyến 16,
quân Pháp bại trận vẫn còn bị
giam trong các trại tù. Với sự liên minh của
các lực lượng vũ trang và sự hợp
tác của các nhân vật chính trị cách
mạng chống Pháp, thanh thế của Trung Hoa
Quốc gia lúc bấy giờ tại Hà Nội và Huế rất lớn.
Trong lúc đó, Việt Minh tuy có
chính quyền trong tay, nhưng vướng phải trở ngại là
trót mang lốt mác-xít
lê-ni-nít nên gặp khó khăn từ nhiều
phía. Để thoát ra khỏi tình trạng ngặt
nghèo, Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng sản
Đông Dương ngày 11-11-1945, và vận
động với Tiêu Văn làm áp lực với Quốc Dân
Đảng và Đồng Minh Hội để thành lập
chính quyền liên hiệp quốc cộng. Ngày 22-12-1945,
Quốc Dân Đảng thỏa hiệp nhận
50 ghế trong số 350 ghế Đại biểu Quốc Hội sẽ chính thức được bầu
vào ngày
6-1-1946. Vì gặp sự chống đối của Đại Việt Quốc Dân Đảng
cương quyết không tham
gia chính quyền liên hiệp, nên tối ngày
24-2-1946, Tiêu Văn triệu tập một buổi
họp mặt tại Sứ quán Trung Quốc để thuyết phục các đại
biểu Quốc Dân Đảng tham
gia chính phủ Hồ Chí Minh. Do đó, ngày
2-3-1946, chính phủ liên hiệp quốc cộng
được công bố thành lập, do Hồ Chí Minh làm
Chủ Tịch, Nguyễn Hải Thần làm Phó
Chủ Tịch, với 10 Bộ Trưởng, chia ra như sau: 2 không đảng
phái, 2 Đồng Minh
Hội, 2 Quốc Dân Đảng, 4 cợng sản. Nếu lúc bấy giờ Hồ
Chí Minh thực lòng đặt
quyền lợi Tổ quốc lên trên lý tưởng quốc tế vô
sản, chân thành hợp tác với
những người yêu nước quốc gia chủ nghĩa để chống lại âm mưu
tái chiếm thuộc địa
của thực dân Pháp thì dễ gì quân
Pháp kéo vào chiếm đóng các
thành phố quan yếu
của Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 16. Mặt khác, nếu
lúc bấy giờ Trung Hoa Dân
Quốc hội đủ điều kiện để có thể hành xử theo tư thế một
cường quốc khu vực thì
chắc chắn sẽ có tác động lớn lao đến tình
hình Việt Nam. Việt Nam sẽ lại hướng
về phương bắc.
Nhưng Trung Hoa Dân Quốc tuy mang
danh nghĩa một trong tứ cường thắng trận mà thực chất chỉ
là cái thùng rỗng,
quân sĩ thì hèn yếu, tướng lãnh thì
tham ô, kinh tế thì kiệt quệ. Tại Việt Nam,
viên tư lệnh Lư Hán đã vô học lại bất
tài, mọi việc đều giao cho Tiêu Văn và
Chu Phúc Thành liệu lý. Từ khi được tin Long
Vân bị Tưởng Giới Thạch thừa cơ
đánh úp đoạt mất Vân Nam, Lư Hán càng
tỏ ra chán nản, suốt ngày chỉ hút thuốc
phiện và ăn của đút. Hồ Chí Minh lại khéo
lấy lòng Lư Hán và Tiêu Văn, đem vàng
bạc mua chuộc 2 viên tướng này để họ không thi
hành lệnh của Trùng Khánh thay
thế chính phủ Hồ Chí Minh bằng một chính phủ do
Bảo Đại cầm đầu. Giới tài phiệt
Quảng Châu lại hám lợi, vận động chính phủ
Trùng Khánh ký với Pháp thỏa hiệp
ngày 28-2-1946 để cho quân Pháp vào chiếm
đóng phía bắc vĩ tuyến 16, đổi lại,
người Pháp hoàn trả đường hỏa xa Côn Minh-Hải
Phòng cho Trung Quốc, cho hàng
hóa Trung Quốc quá cảnh miễn thuế, và nhường cho
Trung Quốc một khu vực tại
cảng Hải Phòng. Như vậy, về phía chính phủ
Trùng Khánh, đây là hành động phản
bội trắng trợn đồng minh của mình chỉ vì mối lợi trước
mắt. Chính phủ Hồ Chí
Minh bị đặt trước một việc đã rồi, nên mấy ngày sau
phải ngậm bồ hòn thuận theo
ý của người Tàu mà ký với Jean Sainteny
hiệp định sơ bộ 6-3-1946, chấp nhận qui
chế một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và
trong Liên Hiệp Pháp, và
để cho quân Pháp chiếm đóng những thành phố
quan yếu của Việt Nam ở phía bắc vĩ
tuyến 16. Việc ký kết này là một sự nhượng bộ
quá mức, một sự đầu hàng nhục
nhã, một sự phản bội nhân dân không tiền
khoáng hậu. Bởi vậy, Nguyễn Tường Tam
không chịu phó thự và Tiêu Văn đã
làm áp lực để Vũ Hồng Khanh ký thay. Về sau
này, trong bài phát biểu “Dưới bóng cờ vẻ
vang của Đảng, tiến lên dành những
thắng lợi mới” đọc trên đài phát thanh Hà
Nội ngày 3-2-1970, Lê Duẫn đã khoác
lác ví von việc Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ
bộ 6-3-1946 như một tuyệt chiêu
trong võ thuật, một mũi tên bắn hạ 2 con chim cùng
một lúc, vừa đẩy lui quân
Tàu Tưởng, vừa tạo điều kiện đánh diệt phe phản động theo
Tàu. Sự thực thì khi
hạ bút ký Hiệp định sơ bộ rước quân Pháp
vào miền BắcViệt Nam, Hồ Chí Minh đã
theo Tàu trước ai hết, đã ngoan ngoãn chiều theo
ý đồ bọn Tàu Tưởng để được an
thân, đã phản bội các chiến hữu liên hiệp với
mình chống Pháp, đã phản bội đại
khối nhân dân đóng
góp vàng bạc và mạng
sống của mình để chống việc người Pháp âm mưu
áp đặt trở lại nền đô hộ lên dân
tộc Việt Nam. Hành động tham vàng bỏ nghĩa của bè
lũ Lư Hán Tiêu Văn, cũng như
thái độ buông xuôi bất lực của chính phủ
Trùng Khánh, đã khiến các nhà
cách
mạng Việt Nam theo Tàu chán ngán. Bởi vậy, sau khi
rút về Trung Quốc, ngoại trừ
những phần tử xưa nay vẫn làm công cụ cho người
Tàu, hầu hết những nhà cách
mạng Việt Nam trước đây tin tưởng ở Tàu nay dứt
khoát quay lưng với phương bắc
để tìm đến phương tây. Nói tóm lại, trong
cái thế giằng co ảnh hưởng giữa
phương bắc và phương tây vào những năm 1945-1946,
Trung Hoa Dân Quốc vì thiếu
tư cách và kém khả năng về nhiều mặt nên
đã bỏ lỡ cơ hội chiếm thế thượng
phong.
Việt
Nam thời cận
đại: thế giằng co giữa phương bắc và phương tây.
Cuối năm 1949, những người lính của
Lâm Bưu xuất hiện trên các ngọn đồi Quảng Tây,
và cái thế giằng co ảnh hưởng
tại Việt Nam giữa phương bắc và phương tây nói
trên đây bước vào một thế trận
mới, rất khác biệt. Mới và
khác biệt
bởi lẽ cái thế giằng co ấy không những chỉ xảy ra giữa
Tàu Mao và Pháp mà còn
xãy ra giữa Tàu Mao và Nga Xô, giữa
Tàu Mao và Hoa Kỳ. Người quan sát và
phân
tích tình hình sẽ tìm thấy trong mớ
bòng bong tranh giành ảnh hưởng giữa các
đại cường tại Việt Nam không ít những thí dụ điển
hình nêu bật sự hơn kém giữa
đôi bên tranh chấp để rút ra bài học thực
tiển cho dân tộc Việt Nam trong thế
kỷ 21 này là, để làm cho dân giàu
nước mạnh, Việt Nam nên chủ động
hướng về phương nào, phương bắc hay phương tây?
Ngày 18-1-1950, Trung cộng công nhận
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Biên giới Hoa Việt
được thông đường, Trung công
cấp kỳ đưa 40.000 bộ đội chính quy Việt cộng qua biên giới
để tái huấn luyện và
võ trang. Từ 1-3-1950, mỗi ngày có hàng
ngàn xe vận tải Trung cộng chở quân nhu
và chiến cụ qua Việt Nam, có cả đại pháo và
cao xạ phòng không. Cố vấn quân sự
và kỷ thuật Trung cộng cũng bắt đầu xuất hiện, từ Bộ Tổng Tư
lệnh cho đến các
đơn vị bên dưới tới cấp tiểu đoàn. Tháng 6-1950,
Việt cộng thành lập Tổng cục
Chính trị, công khai đặt quân đội dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản qua hệ
thống các chính ủy đại đơn vị và các
chính trị viên tiểu đoàn và đại đội. Đến nửa
sau năm 1950, Việt cộng đã tổ chức được một số đơn vị tác
chiến tinh nhuệ như
các đại đoàn 304, 308, 312, 316, 320. Rập khuôn
Hồng quân Trung cộng, các sĩ
quan Việt cộng bắt đầu mang quân hàm, hưởng các qui
chế cung cấp khác nhau: đại
táo, trung táo, tiểu táo, đặc táo,
tùy theo chức vụ và cấp bậc, và có cần vụ
theo hầu.
So sánh binh lực hai bên lâm chiến
lúc bấy giờ, từ cấp tiểu đoàn trở xuống, thì bộ
đội Việt cộng có nhiều ưu thế
hơn quân đội Liên Hiệp Pháp về mặt vũ trang. Hơn
nữa, vừa mới chuyển qua vận
động chiến là Việt cộng đã noi theo gương Trung cộng sử
dụng chiến thuật biển
người. Hậu quả đầu tiên được ghi nhận là sự tan rã
của 2 binh đoàn Charton và
Lepage ở trận Đông Khê-Thất Khê vào đầu
tháng 10 năm 1950, và tiếp theo là việc
quân Pháp triệt thoái Lạng Sơn vào cuối
tháng 10 và Lào Kai vào đầu tháng 11
năm 1950. Các cố vấn Hồng quân như Trần Canh, Dương Đắc
Chí, Vi Quốc Thanh, Lã
Quý Ba bắt đầu vênh váo lên mặt, cho rằng
chiến thuật biển người của Lâm Bưu là
vô địch. Sự thực thì việc Carpentier quyết định rút
quân ra khỏi Cao Bằng chỉ
là việc thực hiện kế hoạch Revers đã được Thủ tướng
Pháp Queille chấp thuận,
dựa vào tin tức tình báo ước tính có
tới 20 sư đoàn Hồng quân đang tập trung ở
vùng biên giới mà người Pháp tránh
né không muốn chạm mặt. Đến như việc hai
binh đoàn Charton Lepage bị thảm bại thì lý do
chính không phải là vì Võ
Nguyên
Giáp đã áp dụng hữu hiệu chiến thuật biển người
của Trung cộng, mà vì các sĩ
quan Pháp đã bị bất ngờ trước hỏa lực vượt trội và
tinh thần chién đấu xã thân của
bộ đội Việt cộng lần đầu tiên từ du kích chiến chuyển sang
vận động chiến. Việc
triệt quân ra khỏi Lạng Sơn chỉ là hậu quả của sự kiện
thất trận Đông Khê-Thất
Khê, quân Pháp ở Lạng Sơn chưa đánh đã
rút. Việc lui quân từ Lào Kai và Lai
Châu đã được tiến hành tốt đẹp, Pháp lui
quân để bảo toàn lực lượng, để tránh
việc chạm địch ở một địa bàn chiến lược bất lợi, mặc dù
trước đó đã thắng trận
đồn Phố Lu, gây thiệt hại hơn 1.000 nhân mạng cho đại
đoàn 308. Đâu có nơi nào
dành chổ cho thành quả của chiến thuật biển người
và công trạng của các tướng
lãnh Hồng quân Trung Quốc. Đây là sự thực,
được khẳng định thêm về sau qua thảm
bại kinh hoàng của các đợt xung phong biển người của bộ
đội cộng sản ở Mạo Khê,
ở Vĩnh Phúc Yên, và ở Nà Sản trong suốt năm
1951. Việt cộng đã thảm bại vì thân
người trần trụi, cho dù với số đông áp đảo, vẫn
không sao thắng nổi đạn đại
liên , bom napalm, và các tầng lưới lửa. Trong cuộc
chiến chống thực dân, người
Việt Nam đã không học được điều gì mới lạ từ phương
bắc. Chiến thắng Điện Biên
Phủ năm 1954 chủ yếu là nhờ vào sự kiện người Mỹ
không giữ lời hứa mang không
lực hùng hậu của hạm đội 7 đến dội bom xuống biển người tiến
công. Cứ xem màn
kết thúc trận Khe Sanh năm 1968 thì thấy rõ. Cũng
cùng một loại cứ điểm bị vây,
cũng cùng một địa hình lòng chảo, cũng cùng
một lối tiến đánh địa đạo, nhưng Võ
Nguyên Giáp đã phải bó tay trước mìn
claymore và chiến thuật dùng bom rải thảm
của Mỹ, và đã phải thừa nhận rằng trong chiến tranh hiện
đại, yếu tố quyết định
chủ yếu là hiệu năng của vũ khí chứ không phải
là ý chí của con người.
Tại Hiệp nghị Genève năm 1954, Trung
cộng ép buộc Việt cộng chấp nhận chia đôi Việt Nam ở vĩ
tuyến 17, mặc dù đối
chiếu với thực trạng thắng lợi trên chiến trường lúc bấy
giờ, Việt cộng có thể
đòi hỏi nhiều hơn. Tại phía nam vĩ tuyến 17, người Mỹ hất
chân người Pháp và
yểm trợ một chính thể cộng hòa thân Mỹ. Người
dân miền nam Việt Nam dần dà quen
với lề lối sinh hoạt chính trị đại nghị và kinh tế thị
trường của phương tây,
biết ưa chuộng dân chủ pháp trị, biết tôn trọng
nhân quyền, và tự do tín ngưỡng
của tha nhân, đồng thời biết chú tâm đến việc mở
mang công nghiệp, phát triển
thương nghiệp, đơn giản hóa tổ chức công vụ, áp
dụng đường lối địa phương phân
quyền, khuyến khích các sáng kiến tự túc
phát triển xã ấp. Trong
lúc đó, ở phía bắc vĩ tuyến, Trung
cộng ngăn trở Việt Nam thống nhất, thuyết phục Việt Nam truờng kỳ mai
phục, bày
ra vụ “Lưỡi rồng Trung Quốc” để âm mưu độc chiếm biển đông,
ấn hành bản đồ
Trung Quốc với biên giới phía nam kéo xuống tận
Quảng Bình. Vì những thất bại
chua cay trước đây khi noi gương Trung cộng tiến hành
chiến dịch đấu tố trong
cải cách rrộng đất, chiến thuật biển nguời trong chiến tranh
chống thực dân,
nên Việt Nam lần này không chịu nghe lời Trung cộng
làm cách mạng văn hóa mà
thực chất chỉ là chiến dịch chống Liên Xô. Bản chất
bành trướng bá quyền của
Trung cộng làm cho phe thân Trung Quốc ở Việt Nam dần dần
mất thế đứng, phải
nhường chổ cho phe thân Liên Xô. Trường Chinh mất
chức Tổng Bí thư Đảng Lao
Động, để Lê Duẫn thay thế. Tiếp theo, Hoàng Văn Hoan trốn
ra nước ngoài, Trần
Quốc Hoàn mất chức Bộ Trưởng Nội vụ, Đặng Thai Mai bị chế riễu
về bài “Đối với
tôi, ánh sáng rọi từ phương bắc tới” đăng tải
trên tạp chí Học Tập từ mấy năm
trước. Ảnh hưởng phương bắc từ Trung cộng mờ nhạt trước ảnh hưởng
phương tây từ
Liên Xô. Nhờ Liên Xô mới có nhà
khoa học Nguyễn Văn Hiệu. Nhờ Liên Xô mới có
nhạc sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn. Khi người Mỹ đem chiến tranh ra
đất bắc, cũng
nhờ Liên Xô mà miền bắc mới có chiến đấu cơ
Mig và hỏa tiển SAM để đối chọi với
phi pháo và hải pháo của hạm đội 7 Hoa Kỳ.
*
* *
Kết
luận.
Đối với Việt Nam đang đặt chân vào
thềm thế kỷ 21, phương bắc có gì để sánh với
phương tây?
Phương bắc, tức là nước Tàu, chỉ có
cái
viễn ảnh con ngáo ộp sư tử thức giấc để hù dọa Việt Nam.
Ai cũng nói đến vai
trò siêu cuờng hạt nhân của Trung Quốc trong thế kỷ
21. Nhà sử học Toy Bee của
Anh Quốc ngay từ thập niên 60 của thế kỷ 20 đã vội
vã tiên đoán Trung Quốc
trong thế kỷ 21 sẽ nuốt trọn Siberia, sẽ gồm thâu Cao Ly, Nhật
Bản, Mông Cổ,
Trung Á, Đông Nam Á và Úc châu.
Nhưng thử hỏi từ 1964 là năm Trung cộng thử quả
bom hạt nhân đầu tiên đến nay, kho vũ khí
nguyên tử của Trung cộng (20 ICBM,
100 IRBM, 4 SSM, và 24 SLBM) có được những gì gọi
là đáng đem ra so sánh với
Anh và Pháp, chứ đừng nói đến chuyện so
sánh với Nga và Mỹ? Với lại, kiến thức
khoa học kỷ thuật hạt nhân của Trung Quốc có được
là nhờ phương tây. Tiền Học
Sàng, cha đẻ vũ khí hạt nhân của Trung Quốc, vốn
là một giáo sư vật lý của Mỹ,
sinh truởng ở Mỹ, chỉ vì bị gián điệp Trung cộng
kích động tình tự dân tộc nên
đã chịu về Hoa lục làm việc cho Trung cộng. Trung cộng
vẫn tiếp tục chiêu mộ
các khoa học gia phương tây gốc Tàu, vẫn
không ngừng bỏ nhiều tiền mua và thuê
đánh cắp các phát kiến khoa học hạt nhân của
phương tây. Quân lực Trung cộng
đông người (2,1 triệu quân nhân tại ngũ), nhưng trang
bị yếu kém, chiến thuật
biển người đã phá sản, trước đây đã
không dạy cho Việt Nam được bài học nào,
gần đây lại không răn đe được sự ươn ngạnh của Đài
Loan. Mặt khác, kinh tế
Trung cộng lại yếu kém. Tuy mức phát triển hàng
năm khá cao, 8-9% năm, nhưng
sức sản xuất chỉ chiếm 3.5% GNP toàn
cầu so với 25.6% trong trường hợp Hoa Kỳ. Đã vậy, nền kinh tế
Trung cộng lại
đang ở trên tiến trình suy thoái. Với tư thế một
quốc gia kinh tế hạng hai như
vậy, Trung cộng không thể có điều kiện để chạy đua vũ
trang và theo đuổi một
cuộc chiến tranh kỷ thuật cao (high-tech) với Nga hoặc với Mỹ.
Việt Nam từ ngàn xưa vốn có tâm lý
phục Tàu và sợ Tàu. Phục là vì quanh
ta chỉ có Tàu là văn minh. Sợ là vì
quanh
ta toàn là các giống dân hèn yếu, đối
mặt với ta chỉ có Tàu, mà Tàu thì to
lớn
lại chỉ lăm le đè bẹp mình. Từ khi tiếp xúc với
phương tây, nhất là từ thời
Pháp thuộc, ta không còn sợ Tàu. Ta cũng
giảm sự phục Tàu rồi đi dần đến tâm lý
xem thường Tàu. Nguyên nhân là vì đối
mặt với ta, ngoài Tàu còn có những nước
phương tây cũng văn minh như Tàu. Ta bắt đầu tìm
hiểu tư tưởng, học thuật
phương tây qua trung gian người Tàu; về sau ta trực tiếp
học hỏi người phương
tây, và về một số khía cạnh, ta đã vượt qua
mặt Tàu.
Thời gian qua, có một số người Việt
Nam trở lại tâm lý phục Tàu. Họ trách người
phương tây đã làm cho Việt Nam xa
rời văn minh Đông Á (chủ yếu là Tàu). Họ
tiếc việc phổ cập chữ quốc ngữ đã ngăn
cản người Việt đọc sách xưa viết bằng Hán tự. Nhưng
trách như vậy là không
đúng. Đọc sách xưa viết bằng Hán tự không
cần phải bỏ chữ quốc ngữ để phí nửa
đời người trở lại học chữ Hán. Chỉ cần lập một viện Hán
học hay các ban phiên
dịch cổ thư ở các trường Đại học là đủ. Còn văn
minh Đông Á ? Chả lẽ vào thời
đại tin học ngày nay, ta lại còn khư khư bám chặt
tam cương ngũ thường, bức
hiếp phụ nữ, chà đạp nhân quyền! Chả lẽ ta còn dốc
lòng tin tưởng vào lưỡng
nghi, tứ tượng, ngũ hành tương xung, tương khắc, để rồi con
gái tuổi dần không
ai chịu cưới, ngày mùi không ai chịu đi nhà
thương khám bệnh uống thuốc (mùi
bất phục dược)!
Ngày nay chính người Tàu cũng phải
học hỏi người phương tây. Chủ nghĩa mao-ít là kết
quả của việc học tập chủ
nghĩa mác-xít lê-ni-nít. Chính người
Tàu đang tìm cách ve vãn người Mỹ để hưởng
qui chế tối huệ quốc, gia nhập tổ chức WTO, nhằm mục đích chấn
hưng kinh tế
quốc dân. Chính người Tàu đang tìm
cách liên minh với người Nga để được mua tàu
ngầm nguyên tử, phi cơ SU- 30, nhằm mục đích canh
tân quân đội, ngõ hầu đương
đầu với cái thế áp đảo của quân lực Hoa Kỳ.
Mà Nga hay Mỹ thì cũng đều là những
nước phương tây. Việt Nam thế kỷ 21 chẳng có gì để
học hỏi ở phương bắc. Việt
Nam thế kỷ 21 dứt khoát hướng về phương tây, tìm ở
phương tây tư tuởng và kiến
thức để nâng cao mức sống cũng như sức mạnh để làm đối
trọng quân bình tương
quan ảnh hưởng trong mục đích giải tiêu áp lực đe
dọa từ láng giềng phương bắc.
Tháng
giêng năm 2000
Minh
Vũ Hồ Văn Châm
Đã
đăng:
-
Tạp chí Cách
Mạng số 16, Tháng 2, năm 2000.
-
Tạp chí Đi Tới
số 33 & 34 Bộ mới, Tháng 5 & 6 năm 2000.
-
Đặc san Quảng
Trị Xuân Tân Tỵ 2001, Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng
Trị Georgia, 6243 Wandering
Way, Norcross, GA 30093, USA.
-
Quan điểm về một
số vấn đề chính trị và văn hóa Việt Nam. Phần Khảo
Luận. Minh Vũ Hồ Văn Châm.
Bản điện tử 2002 (mã Unicode và VPS). Website:
http://www.geocities.com/chamho