HUẾ
ĐẤT
NƯỚC VÀ CON NGƯỜI
Nguyễn
Đức Cung.
Thân
tặng các bạn Huế của tôi.
Trong lịch sử cận đại
Việt-Nam, có lẽ Huế là địa phương
được nghiên cứu, biên khảo, tìm hiểu nhiều
nhất và có sức quyến rũ mãnh liệt nhất
đối với nhiều người đặc biệt
là với các nhà nghiên cứu văn học, sử học,
giới làm văn nghệ, du khách và là nơi xuất
phát
phong trào “Huế học” với sự xuất hiện của
Tạp chí Bulletin
Des Amis Du Vieux Hué
1 gọi tên là Tập
San Đô Thành Hiếu Cổ
xuất bản từ tháng giêng năm 1914 mà ảnh hưởng
và tác động của nó còn tồn tại mãi
về sau.
Người ta biết đến Huế, tìm hiểu về
Huế qua nhiều phương diện lịch sử,
văn hóa, văn học, nghệ thuật âm nhạc, thi ca,
kiến trúc v.v... Huế với những quần thể di
tích hoàng thành, điện đài, lăng tẩm,
chùa chiền,
đền miếu đã được Tổ chức Unesco của
Liên Hiệp
Quốc công nhận là một di sản văn hóa quốc tế.
Biết bao nhiêu công trình biên khảo viết về
Huế
xuất hiện ở hải ngoại và trong nước
để vinh danh Huế, hoài niệm về chốn cố
đô ngàn năm văn vật.
Có biết bao tổ chức kỷ niệm Huế, thương
nhớ Huế, hoài vọng Huế do những người
sinh trưởng tại Huế hay thân hữu của Huế,
các tổ chức đồng hương, đồng châu,
các hội ái hữu các trường trung học Khải
Định hay Quốc Học, Đồng Khánh xuất hiện
qua các lễ lạc, các đặc san, báo chí, hệ
thống
truyền thanh, truyền hình hướng về Huế
như một biểu tượng của quê hương
thân thương. Bởi thế, theo dõi sự hình thành
và
phát triển của Huế qua trường kỳ lịch
sử, tìm hiểu khái quát về các danh lam
thắng tích
để tìm thấy mối liên hệ giữa thiên nhiên, kiến
trúc và con người xứ Huế và từ đó
nhìn ra một
triển vọng tốt đẹp trong bối cảnh quê
hương có dân chủ, tự do thiết tưởng
cũng là điều cần thiết đối với mọi
người chúng ta.
1.-
Bối cảnh lịch sử và thiên nhiên
Vào
thế kỷ XIII, biên giới Đại Việt với
Chiêm Thành lấy giòng sông Thạch Hãn
(Quảng Trị) từ
thượng nguồn đổ ra Cửa Việt làm biên giới
thiên nhiên. Có nhiều giai đoạn chiến tranh
và hòa bình
xảy ra giữa hai nước Việt và Chiêm. Năm 1282
và năm 1284 là những thời điểm quân Nguyên
xâm
lăng Đại Việt. Sử liệu cho biết trong
trận chiến năm 1284, lực lượng Chiêm Thành và
Đại Việt đã cùng nhau phối hợp để
phá tan các trận tấn công của giặc Nguyên.
Lực
lượng Chiêm Thành lúc bấy giờ do vua Chiêm
là Chế
Mân thống lĩnh. Chế Mân tức Thái tử Bổ
Đích (Harijit) là con của quốc vương Indravarman V
lúc bấy giờ ông vua này đã già yếu
và Chế Mân
đã lên thay. Hốt Tất Liệt, Nguyên thế tổ với
mộng chinh phục toàn thế giới, đã tổ chức
một đạo thủy quân giao cho Toa Đô từ Quảng
Châu xuất phát đánh vào Champa tại cửa Thi
Nại. Quốc
vương Indravarman V và thái tử Bổ Đích bỏ kinh
đô Vijaya, vào rừng tổ chức du kích chiến
đánh lại quân Nguyên. Quân Nguyên vốn
là một quân đội
quen chiến đấu ở vùng bình nguyên bằng phẳng,
sử dụng giỏi kỵ binh, cho nên gặp thất lợi
khi phải ra quân ở vùng rừng núi, lâu
ngày cạn
lương thực nên phải tìm cách tiến ra miền bắc.
Chiến tranh Nguyên-Việt giai đoạn 1282-85 kết thúc
với việc nhà Trần đánh tan các trận tấn công
của Thoát Hoan khiến y phải rút về Tàu còn
Toa Đô
bị giết tại trận tuyến sông Cầu
(24/6/1285). Sử nhà Nguyên chép rằng trong giai
đoạn này
chính Đại Việt đã sai hai vạn quân và năm
trăm thuyền vào giúp cho Chiêm Thành. 2
Sau chiến tranh, năm 1301,
vua
Trần Nhân Tông tốn vị, nhường ngôi lại cho
con là Trần Anh Tôn và trong lần viếng thăm
Chiêm Thành
, Thái Thượng Hoàng Nhân Tôn đã gặp
Chế Mân và có lẽ
cảm phục thái độ ân cần tiếp đón và nhất
là tinh thần mã thượng anh hùng của Chế Mân
tỏ
rõ trong công cuộc kháng Nguyên mà vua
Trần Nhân Tôn đã hứa
gả công chúa Huyền
Trân
cho Chế
Mân.3
Năm 1306, Chế Mân sai sứ giả mang châu báu,
vàng bạc
ra kinh đô Đại Việt xin cưới công chúa Huyền
Trân nhưng vua Trần Anh Tông cùng triều thần do dự
không chịu gả. Sau đó Chế Mân lại xin dâng đất
hai châu
Ô
và châu
Lý
làm sính lễ nên nhà Trần lúc bấy giờ
mới chấp
thuận lời cầu hôn. Tháng sáu năm đó
(bính ngọ,
1306), vua Anh Tôn tổ chức một phái đoàn đưa
tiễn công chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc
và
tương truyền chính vua thân hành đưa tiễn,
đến cửa biển Ô Long cho đổi tên là Tư
Dung (tức là dung mạo đoan trang của người
con gái) . Từ thời điểm này Huế chính thức
nhập tịch vào giang sơn Đại Việt. Nhưng
cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân không
kéo dài được
lâu. Năm sau, 1307 Chế Mân chết, và theo tục lệ
Chiêm Thành thì hoàng hậu cũng phải
lên dàn hỏa để
chết theo vua. Vua Trần Anh Tôn đã cho Trần Khắc
Chung vốn là người tình cũ của công chúa
Huyền
Trân vào tìm cách cứu công chúa
về với mưu kế là
đưa công chúa ra bờ biển thiết lập đàn tế
và sau đó dùng thuyền nhẹ cướp được
công chúa đưa về bắc.
Hai
châu Ô Lý
vuông ngàn dặm
Một
gái Huyền
Trân đáng mấy mươi?
4
(Hoàng
Cao Khải).
Lãnh
thổ Đại Việt rộng thêm nhờ sự hy sinh
của một bậc quần hồng, mặc dù thế
ngày xưa vẫn có người châm biếm:
Tiếc
thay
cây quế giữa rừng,
Để
cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.5
Hai
châu Ô và Lý còn được mang tên
là Thuận châu và Hóa châu,
từ đó có tên là Thuận Hóa về sau cũng
vốn là
đất đai tranh chấp giữa hai dân tộc Chiêm Việt
do những chạm trán và thù hận giữa hai bên.
Năm
1558, Nguyễn
Hoàng
được
Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa và với
chính sách thu dụng hào kiệt, thương yêu
nhân dân để
nuôi dưỡng đại chí, Chúa Tiên đã biến
đất
từ phía nam Đèo Ngang trở vào, trong đó
có Huế,
thành một nơi “vạn đại dung thân”.Lúc đầu
các chúa Nguyễn đóng đô ở Ái tử
(1558- 1570), sau dời
sang ở Trà bát (1570- 1600), rồi Dinh cát (1600-
1687, ở
Phước yên (1626- 1636). Từ năm 1636 đến 1687,
phủ chúa Nguyễn đặt ở Kim long rồi sau
đó dời về Phú xuân. Từ năm 1653, giáo sĩ Đắc-Lộ đã dùng từ
kẻ
Huế
để nói về nơi
đặt thủ phủ của các chúa Nguyễn. Tất cả
công trình xây dựng Đàng Trong của các
chúa Nguyễn khởi
đi từ Huế.
Trước
hết, bối cảnh sông núi là nền tảng của sự
xây dựng một cơ đồ và sông Hương, núi Ngự
của Huế đô đã góp phần cho công cuộc
xây dựng
nền tảng đó.
Sông
Hương
hay Hương giang mà người
Pháp trước đây quen gọi là La
Rivière des Parfums
sở dĩ có tên như vậy tương truyền là tại
thượng nguồn xuất phát từ Trường
Sơn của dòng sông này, hai bên tả hữu
đôi bờ
có một giống cỏ tên là Thạch
xương bồ
hoặc Ngoại
xương bồ,
tên khoa học là Acorus Gramineus Soland thuộc một loại
thuốc trường sinh tỏa ra mùi thơm đặc biệt.
Loại cỏ này mọc đầy hai bên bờ khe suối
đổ nước thơm vào dòng sông khiến cho dòng
sông
có một hương vị thơm tho ngọt ngào nên tiền
nhân chúng ta mới đặt tên cho dòng sông
là sông
Hương, và cụ Vân Bình Tôn Thất Lương
đã
khéo tả trong đoạn thơ sau đây:
Cỏ
thơm có giống thạch xương bồ,
Sanh
ở hai
nguồn tả hữu trạch;
Hơi
thơm dầm nước trong veo,
Hợp
thành
sông thơm chảy róc rách.
Quanh
co rộng
hẹp vài muôn sãi,
Thấm
mát
ruộng vườn gành với bãi.
Êm
đềm
theo dọc tỉnh Thừa Thiên,
Chảy
về
Thuận An ra Đông Hải.6
Cồn
Hến và cồn Dã Viên trên sông Hương nằm
hai bên trái
phải trước mặt hoàng thành là tượng
trưng cho “tả thanh long, hữu bạch hổ” đối
với vị trí kinh thành Huế.
Tiếng
hát
ngư ông giữa sông Nhật Lệ,
Tiếng
kêu
đàn nhạn trên áng Hoành Sơn.
Một
mình
em ngồi giữa sông Hương,
Tiếng
ca
theo khúc đoạn trường ai hay.
Núi
Ngự
hay núi Ngự Bình còn có tên là
Bằng Sơn được
coi như bức bình phong ở mặt nam của kinh thành Huế,
cách thành Huế khoảng 3 km, cao khoảng 105 mét,
trên mặt
bằng phẳng, trồng nhiều thông, hình dáng được
dân gian mô tả là “trước tròn sau méo”
trong câu hò “núi
Ngự
Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng
đục
mưa trong”,
và có thời cây thông trên núi bị
đốn chặt bừa bãi cho đến nỗi có
người lên tiếng than thở: “Núi
Ngự không cây chim đậu
đất, Sông Hương vắng khách đĩ kêu
trời”.
2.-
Kiến
trúc xứ Huế qua thời gian.
Tính
cách địa linh của Huế cũng đã khởi
đầu từ năm tân sửu (1601) khi chúa Nguyễn
Hoàng đến xã Hà khê, nay là xã
An ninh thấy đồng bằng
nổi đất cao như hình con rồng ngảnh đầu
trông lại, phía trước trông ra sông
cái, phía sau liền với
hồ, phong cảnh xinh đẹp, bèn hỏi chuyện dân
địa phương thì được tâu rằng
tương truyền ngày xưa có một người dân
trông thấy một bà già mặc áo đỏ quần lục
ban đêm ngồi trên gò đất nói rằng rồi
đây sẽ có một vị chân chúa đến dựng
chùa ở đây mà thu góp khí
thiêng để giữ vững
long mạch. Nói xong bà già biến mất nên
dân chúng gọi
núi đó là núi Thiên Mụ 7.
Chúa Nguyễn Hoàng thấy đó là chỗ đất
có linh khí nên cho lập một ngôi chùa
gọi là chùa
Thiên Mụ,
trùng tu qua các thời đại. Hàng chục ngôi
chùa khác mà nổi
tiếng là các chùa Từ Đàm, Diệu Đế, Thuyền
Tôn, Trà Am, Từ Hiếu, Báo Quốc v.v... cũng được
xây cất khắp nơi tại Huế khiến cho Huế
trở thành thủ đô Phật Giáo một thời vậy.
Các chúa nhà Nguyễn cũng như triều đại Tây
Sơn về sau cũng đều coi vùng đất Phú Xuân
là thủ phủ của đất nước. Đây
cũng là nơi đạo Công Giáo được truyền
vào trước nhất với bà Minh Đức
Vương Thái Phi, vợ của chúa Nguyễn Hoàng, trở
lại đạo Công Giáo năm 1625. Bà này là
mẹ của
hoàng tử Nguyễn Phúc Khê, con thứ 10 của
chúa Nguyễn
Hoàng. Các ngôi thánh đường ở Phước
Yên, Phủ
Cam, nhà thờ Phanxicô (còn gọi là nhà
thờ Nhà nước),
nhà thờ Trung bộ, nhà thờ Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp dần dần được xây lên.
Sau
khi thống nhất sơn hà, năm 1805, vua Gia Long đã chọn
Huế làm kinh đô, cho khởi công xây cất kinh
thành Huế 8 theo kiểu Vauban gồm
có ba lớp Phòng thành, Hoàng thành
và Tử Cấm thành. Phòng
thành diện tích rộng 520 ha, chu vi gần 10.000m, cao
6,60m,
dày 21m (giữa đắp bằng đất, hai mặt
tường trong và ngoài ốp bằng gạch), có trổ
10 cửa để ra vào, gần chân thành có
đào một hệ
thống hào (fossé) chạy quanh bốn mặt thành,
bên ngoài
còn có một hệ thống sông sâu hơn gọi
là Hộ
thành hà. Hoàng thành còn có
tên là Đại nội chu vi 2450m có bốn
cửa: Ngọ Môn (nam), Hòa Bình (bắc), Hiển Nhơn
(đông), Chương Đức (tây). Tử cấm thành là
vòng thành trong cùng có chu vi 1225m với 7
cửa ra vào, đây là
nơi ở và làm việc của vua và gia đình,
hoàn toàn
ngăn cách hẳn với thế giới bên ngoài.
Nhân
công được huy động vào công tác xây cất
này
lên khoảng 3 vạn gồm cả dân và lính,
kéo dài cho đến
năm 1832. Kinh thành Huế với hàng trăm công
trình kiến
trúc đẹp mắt trong Đại Nội như điện
Thái Hòa, điện Long An, Ngọ Môn v.v. là nơi
hoàng đế
và hoàng gia cư ngụ và các phủ bộ, cơ quan
để
các triều thần làm việc. Nhờ việc chọn Huế
làm kinh đô mà lối sống của người dân ở
đây cũng thăng tiến hơn và trình độ trí
thức,
dân trí cũng nhờ đó mà có phần
phát triển thuận
lợi hơn các nơi khác. Quan lại ở các nơi về
kinh đô làm việc, các cơ sở giáo dục được
xây dựng, các khoa thi được tổ chức ở
kinh đô để tuyển chọn nhân tài, các của ngon
vật lạ được đưa về kinh đô
dâng tiến, nhà cửa, dinh cơ, phủ đệ
được xây dựng tạo công ăn việc làm cho tầng
lớp thợ thuyền, thủ công nghệ giỏi tay nghề
và làm cho khuôn mặt chốn kinh đô ngày
càng rạng rỡ
hơn. Huế cũng có Văn
miếu
thờ đức Khổng Tử, Mạnh Tử và các bậc
tiền hiền của đạo Nho được xây cất
năm 1808 gọi là Văn Thánh, có dựng 32 tấm bia trên đó khắc tên 293 vị
tiến
sĩ đậu chánh bảng. Trường Quốc tử
giám cũng được xây cất ở trong khu vực
Văn miếu. Ở trước hoàng thành còn có Phu
Văn Lâu
để xướng danh các tân khoa và niêm yết
các chiếu
chỉ của hoàng đế.
Một
số kiến trúc khác như đàn
Nam giao
xây năm 1806 tại làng Dương Xuân gồm một khuôn
viên dài 390m, rộng 265m với rất nhiều công
trình cấu
trúc phụ là nơi nhà vua tế trời đất theo lệ
ba năm một lần. Nơi đây trồng rất nhiều
thông hình ảnh tượng trưng cho người quân tử.
Điện Hòn
Chén
(Ngọc Trản) cũng
được xây cất để thờ Thánh mẫu
Thiên Y A Na. Hổ
Quyền
là nơi quyết đấu của voi và voi được
xây cất làm nơi giải trí của nhà vua.
Lăng
tẩm,
thế giới vĩnh hằng của các vua nhà Nguyễn
đã góp công nhiều trong việc tạo cho Huế có
những
giá trị lịch sử đã được các nhà làm
công
tác văn hóa trong nước và trên thế giới
đánh
giá là một thành tựu rực rỡ nhất của nền
kiến trúc cổ Việt Nam.
Nhận
xét khái quát về cảnh quan lăng tẩm ở Huế, học
giả Phạm Quỳnh đã viết trên tạp chí Nam
Phong vào năm 1918 như sau: “Lăng
đây là gồm cả
màu giời, sắc nước, núi cao, rừng rậm, gió
thổi ngọn cây, suối reo hang đá... Lăng đây
là
bức cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp ghép thêm một
bức cảnh nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là
cái
nhân công tô điểm cho sơn thủy... Không biết
lấy
nhời gì mà tả được cái cảm lạ, cái êm
đềm vô cùng... Không đâu cái công
dựng đặt của
người ta với cái vẻ thiên nhiên của giời
đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây, cung
điện đình tạ cùng một màu, một sắc
như núi non, cây cỏ...”
9
Một
nhà Huế học, Phan Thuận An, cho biết: “Theo quan niệm
“tức vị trị lăng”, phần lớn các lăng tẩm
đều được xây dựng khi nhà vua còn ở ngai
vàng. Hầu hết nhân lực, vật lực của Nhà
nước và năng lực chính của nhà vua nữa,
đều được đổ ra trong nhiều năm
để thực hiện. Chủ đề tư tưởng
nghệ thuật do nhà vua đưa ra, đồ án kiến
trúc do vua duyệt khán, và chính nhà
vua cũng thường
đi giám sát thi công.” 10 Hiện nay ở Huế có
7 khu
lăng tẩm nằm vào một khu riêng biệt ở phía
tây Huế nhìn từ vị trí trung ương của Huế
đô.. Đó là các lăng Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị,
Tự Đức, Dục Đức (ở đây còn có mộ
hai vua Thành Thái, Duy Tân), Đồng Khánh
và Khải Định.
Một
tác giả ngoại quốc, Jeannine Auboyer, trong quyển “Mỹ
thuật Viễn Đông” có nhận xét rằng: “Người
Việt Nam đã biết lựa chọn những khung cảnh
thiên nhiên xinh đẹp nhất để xây dựng những
công trình kiến trúc thờ phụng của mình.
Điều
này chứng thực rõ ràng nhất qua nghệ thuật kiến
trúc lăng tẩm Huế...”
11
Tổng
giám đốc Unesco, Amadou-Mahtar-M’Bow, năm 1981, sau khi đến
thăm lăng tẩm ở Huế, đã nói: “Lăng
tẩm
của các vua nhà Nguyễn... biểu hiện những biến
tấu độc đáo trên một chủ đề thống
nhất. Mỗi một lăng vua với đặc tính
riêng của nó là một thành tựu tuyệt mỹ của
nền kiến trúc cảnh vật hóa (architecture
paysagée), và
mỗi lăng tẩm khơi dậy trong cảm xúc của
khách tham quan một âm vang đặc biệt. Lăng Gia Long
giữa một khu vườn thiên nhiên bao la, gợi lên một
ấn tượng hùng tráng và thanh thản, lăng Minh Mạng
đầy vẻ trang nghiêm và lăng Tự Đức
đem đến cho du khách một hồn êm thơ mộng.”
12
3.- Con người và những nét
đặc trưng văn hóa chốn cố đô.
Huế
là nơi bảo lưu một nền văn hóa dân tộc mới
từ khi thế chính trị của đất nước
chia đôi giữa Đàng Trong và Đàng
Ngoài qua cuộc phân
tranh Trịnh Nguyễn từ nửa đầu thế kỷ
XVII.
Đầu
thế kỷ XV, vùng Thuận Hóa chỉ có khoảng 5.662
dân
đinh canh tác khoảng 7.100 mẫu ruộng, đến năm
1776 số dân đinh tăng lên 126.857 người và số
ruộng tăng lên 265.507 mẫu. Từ buổi đầu
dựng nghiệp của chúa Nguyễn, Thuận Hóa
được coi như là cơ sở căn bản của
Đàng Trong một mặt lo đề phòng và chống trả
lực lượng của chúa Trịnh ở phương
bắc, mặt khác lo xây dựng và phát triển
lãnh thổ
về phương nam. Người dân Huế nói chung vừa
lo chiến đấu để sinh tồn giữa bao nghịch
cảnh lại vẫn lo phát triển đời sống
văn hóa, tinh thần thể hiện qua một số lãnh
vực như âm nhạc, văn học, nghệ thuật...
Nói
đến âm nhạc của xứ Huế, trước hết
người ta hay nhắc đến ca Huế. Nhạc
sĩ Phạm Duy đã viết về Ca
Huế
như sau: “Nếu
người bình dân ở miền
Trung có khá nhiều các điệu dân ca như Hò
Mái Nhì, Hò Mái Đẩy,
Hò Thai, Hò Giã Gạo...
để hát thì, ngoài loại Nhạc Triều
có tính chất
nhạc lễ nghi của vua chúa, giới quyền quý ở
chốn kinh đô nhà Nguyễn có Ca Huế
là thú chơi tao nhã của các
hoàng thân và quan chức trong triều. Mang
tính chất ca nhạc
phòng (chamber music), dưới thời Tự Đức
(1847- 1883) Ca Huế
có ít nhất
là 25 bản đờn trong số đó có 10 bản có lời
ca (9 bằng chữ Hán, 1 bằng chữ Nôm). Đó là
những
bản: Lưu
Thủy, Hồ Quảng, Kim Tiên
(Tiên=không có dấu huyền), Xuân
Phong, Xuân Tình, Điểu
Ngữ, Nam Xuân, Tư Mã Tương Như, Tiên Nữ Tống
Lưu Nguyễn, Bá Nha Khấp Tử Kỳ, Tự Trào, Tự
Thán, Trường Thán...Cũng
như Hát Ả
Đào
ở miền Bắc, Ca Huế
có trình độ
nghệ thuật rất cao vì đã có nhiều bàn tay
nghệ
sĩ góp công xây dựng mà trong thế kỷ trước ta
biết đích danh là ai, chẳng hạn Vua Tự Đức,
Tuy Lý Vương, Ông Cả Soạn, Nguyễn Quang Tồn
v.v... Ca Huế
vào đầu
thế kỷ 20 còn giữ lại một số bài cổ
như Lưu
Thủy, Kim Tiền
(Tiền=với dấu huyền), Nam
Xuân...và
có thêm một
số điệu khác như Nam Ai, Nam
Bình, Bình Bán, Cổ Bản, Tứ
Đại Cảnh
v.v...Danh cầm thường là người
trong hoàng tộc như Vĩnh Trân (con vua Thành
Thái), Vĩnh
Phan và Bửu Lộc...Những bài ca Huế thường do
các bực văn nhân nổi tiếng soạn như Ông Hoàng
Nam Sách, Thúc Giạ Thị Ưng Bình... Cụ Phan Bội
Châu cũng là tác giả của nhiều bài ca Huế
có giá
trị...”
13
Nhạc
Triều
mà Phạm Duy có nhắc đến ở trên là nhạc
cung
đình
thường đi kèm với
múa cung đình. Múa cung đình nhà
Nguyễn có tính cách tập
thể, gồm có các điệu múa bát dật, hoa
đăng, tam tinh chúc thọ, bát tiên hiển thọ,
trình
tường tập khánh, đấu chiến thắng Phật,
tứ linh, nữ tướng xuất quân, múa quạt, tam
quốc tây du, lục triệt hoa mã đăng... thường
được trình diễn cho vua và triều thần xem vào
những dịp lễ lớn như hưng quốc khánh niệm
(2-5 âm lịch), vạn thọ (sinh nhật vua), thánh thọ
(sinh nhật hoàng thái hậu), tiên thọ (sinh nhật
hoàng
thái phi), thiên xuân (sinh nhật thái tử),
thiên thu (sinh nhật
hoàng hậu), lễ tế giao, miếu, xã tắc, tiệc
dạ yến, tiếp sứ ngoại quốc... 14.
Ngoài
dân gian cũng có nhiều thể loại âm nhạc như hò
Huế
gồm hò giã gạo, hò đưa linh, hò bài
chòi (còn gọi
là rao bài chòi hay hô bài
chòi), lý
Huế
thường lấy theo nội dung mà đặt tên ví dụ
Lý mười thương, Lý con sáo, Lý chuồn chuồn,
Lý
tình tang, Lý hoài nam, Lý quỳnh tương,
Lý ngựa ô, Lý tiểu
khúc, Lý tử vi... góp thêm sự phong
phú vào với các làn
điệu cả nước.
Ca
dao Huế
rất phong phú thường đề cập đến
các địa danh và kèm theo các biến cố lịch
sử,
phong tục, tập quán của người dân địa
phương.
Nói
tổng quát về xứ Huế thân thương, ca dao hạ
mấy nét chấm phá như:
Tỉnh
Thừa
Thiên dân hiền cảnh lịch,
Non
xanh nước
biếc, điện ngọc đền rồng.
Tháp
bảy từng,
Thánh Miếu, Chùa Ông,
Chuông
khua Diệu
Đế, trống rung Tam Tòa.
Cầu
Trường Tiền, sáu nhịp bắc qua,
Tả
Thanh
long, hữu Bạch hổ, đợi khách âu ca thái bình.
hoặc
về thổ
sản địa phương:
Tôm
rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo
de An Cựu em nuôi mẹ già.
hay
có khi vẻ những
nét thủy mạc thanh tú:
Gió
đưa cành trúc là đà
Tiếng
chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
hay:
Đông
Ba,
Gia Hội hai cầu,
Ngó lên Diệu Đế
bốn
lầu hai chuông.
Nói
về cuộc
khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916, ca dao có câu:
Chiều
chiều
trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai
sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ,
ai trông?
Thuyền ai lấp ló
bên sông,
Nghe câu mái
đẩy chạnh
lòng nước non!
Nói
về nổi khổ cực của nhân dân khi làm phu tạp
dịch xây lăng tẩm cho vua chúa thì có những
câu như:
Vạn
Niên
là Vạn Niên nào ?
Thành xây xương
lính, hào
đào máu dân!
Huế
cũng là nơi sản sinh nhiều văn nhân thi sĩ
quy tụ trong các tổ chức
xướng họa thi ca, thí du Tao
Đàn Thập Bát Thi Nhân
dưới triều vua Thiệu Trị, Mạc
Vân thi
xã
dưới triều vua Tự Đức của các ông Tùng
Thiện Vương, Tuy Lý Vương với những áng
thi văn trác tuyệt đã từng được vua Tự
Đức khen là:
Văn
như Siêu, Quát vô Tiền Hán,
Thi đáo Tùng,
Tuy thất Thịnh
Đường.
Hương
Bình thi xã
năm 1950 của cụ
Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vy, Hỷ
Thần Nguyễn Hy, Kỉnh Chỉ Phan Văn Hy v.v...
Khi
phong trào thơ
mới
ra đời
trước thế chiến II,
những nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nam Trân, Thúc Tề cũng
có những
bài thơ hay nói về xứ Huế.
Sao anh không về chơi
thôn
Vĩ,
Nhìn nắng hàng
cau nắng mới
lên?
Vườn ai mướt quá xanh
như ngọc,
Lá trúc che
ngang mặt chữ
điền ?
(Đây
Thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử).
Lai
láng niềm
trăng tuôn dạ nước,
Ngập
tràn
sông trắng gợn bâng khuâng
(Đêm trăng trên
sông
Hương _ Thúc Tề).
hay:
Tôi
nghe xa lắm
màu mây bạc
Rời
bóng
kinh thành lửng thửng đi.
(Giao thừa – Trần Huyền
Ân).
Một
vị giáo sư người Pháp, với hồn thơ lai
láng cũng đã viết về thành quách Huế như
sau:
...Ô
cité, que
le soleil qui tombe
Allume
à
l’Occident le clair bucher de gloire
Pour
que revive
un soir ton Passé de sa tombe !
(H.Cosserat: Hué)
Thành
đô
đây, bóng tà dương sắp khuất
Ánh
trời
tây sáng lạn lửa vinh quang
Một
chiều
nọ từ lăng tẩm ẩn uất
Dĩ
vãng
kia, bừng sáng dậy... hồi sinh.
(Võ Như Nguyện dịch) 15
Huế
là nơi mà các cơ
sở giáo dục
được xây dựng khá qui mô làm cơ sở cho nền
Tây học được phát triển một cách tốt
đẹp. Năm 1896, do sáng kiến của cụ Ngô
Đình Khả và được Hội đồng Cơ Mật
Viện lúc bấy giờ đứng đầu là Diên-Lộc
Quận-Công Nguyễn Thân đỡ đầu, Trường
Quốc Học được thành lập tại Huế
do Nghị định ngày 18-11-1896 của Toàn quyền
Đông Dương A. Rousseau. Về sau các trường
Đồng Khánh, Pellerin, Providence lần lượt ra đời
đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài
cho đất
nước. Tại Huế cũng có Phường Đúc do
Jean De La Croix thiết lập chuyên đúc các loại
chuông
chùa, súng thần công, các đỉnh đồng trong
đại
nội với kỹ thuật tân kỳ tạo cho nền
công nghệ bản xứ những bước tiến vững
vào trong nghề nấu kim loại. Các ngành thủ
công
nghệ
như nghề chằm nón,
tơ tằm, thuê thùa cũng phát triển khá.
Về
phương diện các hoạt động tín ngưỡng
dân gian, Huế là nơi nở rộ các lễ
hội,
đình đám truyền thống như lễ giỗ tổ
nghề kim hoàn ở phường Trường An, và phường
Phú Cát, lễ vật Làng Sình, lễ cúng
âm hồn (23- 5 âm lịch)
kỷ niệm ngày thất thủ kinh đô, lễ rước
hến ở làng Cồn Soi, phường Giang Hến, nay
thuộc phường Vĩ Dạ, lễ hội Làng Chuồn
tức làng An Truyền, nơi có Đoàn Trưng, Đoàn
Trực
là hai anh em thủ lãnh trong Giặc Chày Vôi
âm mưu lật
đổ vua Tự Đức đề đưa con của
Hồng Bảo là Đinh Đạo lên ngôi, lễ tế Hữu
công bát vị khai canh bổn thổ làng Mỹ Lợi, lễ
Cô đàn làng Thủ Lễ ở xã Quảng Phú,
huyện Quảng
Điền, lễ hội tưởng niệm vị tổ
sư nghề điêu khắc làng Mỹ Xuyên thuộc xã
Phong Hòa, huyện Phong Điền, lễ hội làng Thanh
Phước thuộc xã Hương Phong, huyện
Hương Trà, lễ tế tổ ngành Ca nhạc Huế
vào ngày 16 tháng 10 âm lịch tại từ đường ở
số 63/6 đường Nguyễn Trãi, phường Thuận
Hòa, lể thu tế làng Dương Nỗ, lễ tế tổ
nghề rèn làng Hiền Lương nay thuộc xã Phong Điền,
huyện Phong Điền, lễ hội truyền thống
làng Dạ Lê Thượng, lễ tế tổ sư nghề
thêu, lễ tế tổ sư thợ nề xóm Ngõa Tượng
làng Địa linh, xã Hương vinh, huyện Hương
Trà...
Nét
văn hóa đặc trưng của Huế còn thể hiện
trong các nhà
vườn
ở xa gần
chốn kinh thành, thường là sở hữu của các
dòng quý tộc thuộc triều Nguyễn, với cốt
cách trang trí thoáng mát, cột kèo
chạm trổ tinh vi, cổ
kính, nhà lợp ngói liệt, rui mè toàn
bằng gỗ quý, xung
quanh vườn tược thường trồng đủ
các loại hoa như hoa dâm bụt, hoa hồng, nguyệt quế,
mai tứ quý... và cây ăn trái thí dụ
như vườn Lạc
Tịnh do nhà thơ Hồng Khẳng lập ra năm 1889 ở
làng Dương Xuân xưa, nay là số 65 Phan Đình
Phùng, Huế,
nhà vườn An Hiên ở thôn Xuân Hòa,
xã Hương Long với
cổng nhà vườn xây theo hình vòm cổ
kính, trong vườn
sum suê cây trái ngọt ngào, Tịnh Gia
Viên ở số 20/3
đường Lê Thánh Tôn vốn của một vị công
chúa ngày xưa nay thuộc của giáo sư âm nhạc
Nguyễn
Hữu Ba với phong cách xây dựng rất đẹp mắt
có danh xưng là Tỳ Bà Trang, vườn nhà Ngọc
Sơn
công chúa, vườn Ý Thảo v.v... 16
Vì
Huế là chốn kinh đô cho nên các vị đại thần
xuất thân từ Huế hay ở các nơi xa về trú ngụ
mà dần dần xuất hiện các dòng tộc lớn
như Nguyễn Khoa, Hà Thúc (làng La Chữ), Thân
Trọng (ở
Nguyệt Biều), Hồ Đắc (ở An Truyền),
Hoàng Trọng, bởi thế tục ngữ địa
phương có câu: “Họ
Thân không nhà, họ Hà không dân”
ý nói dòng họ Thân Trọng không
có nhà riêng mà ở nhà của
triều đình cấp cho, họ Hà Thúc (làng La
chữ) không
có ai là dân thường cả, chỉ toàn người
làm
quan...
Sau
hết, văn minh phong hóa của Huế còn thể hiện
đặc biệt trong các món
ăn đặc sản
địa phương nổi tiếng qua các thế hệ.
Tác giả Bùi Tùng trong bài “Triết
lý sống của
người Huế: nghèo mà sang” đã viết: “Một
trong
những đặc trưng nổi bật của văn
hóa Huế là văn hóa ẩm thực. Món ngon xứ Huế
là món ngon Chăm xưa kết hợp với món ngon Việt,
món ngon dân gian Huế và món ngon cả nước,
do giao
lưu, hòa quyện với linh khí đất Thuận Hóa
mà
thành.”
Theo Bùi Tùng,
“Có tới
1.300 món ăn xứ Huế. Cuốn sách dạy nấu
ăn của bà Hoàng Thị Kim Cúc ở Vĩ Dạ –
người khơi nguồn cho bài thơ nổi tiếng
Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử – đã giới
thiệu công phu 60 thực đơn bốn mùa với 600
món ăn “nấu theo lối Huế” (125 món ăn chay, 300
món
ăn mặn, 175 thứ chè, cháo, dưa, mắm...). Âu
cũng dễ giải thích, bởi Huế là nơi phủ
chúa, cung vua, nơi hàng mấy trăm năm quy tụ tinh
hoa khắp mọi miền đất nước. Món quê mùa
dân dã lại theo người đẹp, người tài,
người sành điệu xâm nhập cung vua phủ chúa, rồi
được dọn lên bàn yến tiệc thành quốc
túy quốc hồn...”
Các món ngon Huế không chỉ
ăn bằng miệng mà ăn bằng ngũ giác quan, món
ăn không áp đảo, chế ngự con người; bát
đĩa đơm bày, đũa bát để ăn
cơm cũng sử dụng theo nguyên tắc hài hòa,
không to
quá, không “lấn” thức ăn. Cũng theo Bùi
Tùng, “các
món ăn
Huế nổi tiếng như cơm hến, bún bò giò heo,
nem Huế, tôm chua – thịt luộc hay các loại bánh
khoái
Thượng Tứ, bánh nậm, bánh bèo... đều thể
hiện một triết lý sống của người Huế:
nghèo mà sang! Nói cách khác, triết
lý ẩm thực Huế là
nghệ thuật làm cho các thực phẩm bình dân
hàng ngày trở
thành những món ăn nổi tiếng, quyến rũ với
du khách bốn phương.”
17
Sau
biết bao tang thương của lịch sử đất
nước, Huế vẫn hiện diện như một
tượng trưng cho vóc dáng Việt Nam, quý
phái, thanh tân và
là nguồn cảm hứng cho rất nhiều nỗ lực
nghiên cứu để viết về Huế, từ trong
nước cũng như ở hải ngoại, tạo
thành một ngành nghiên cứu mệnh danh là Huế
học
ở khắp nơi. Các tuyển tập Nhớ
Huế
do Hội Thân Hữu Huế – Thừa Thiên của nhóm Võ
Văn Tùng ở Cali, các đặc san Lá
Thư
Phượng Vỹ
của nhóm Huyền Tôn Nữ
Quế Hương, Hoàng Thị Oanh ở Houston, nhóm
Huế
vùng Hoa Thịnh Đốn
của Ngô Phi Đạm,
Hoàng Thiện Căn, các Hội Đồng Hương Thừa
Thiên Huế ở Atlanta, Georgia của nhóm Hà
Thúc Trình, Thái
Quang Ty với các Giai
phẩm Hương Giang,
Hội Thừa Thiên Huế ở Florida, Nhóm 48-55 Khải
Định của Nguyễn Tuệ, Tôn Thất Quỳnh
Tiêu ở Dallas cùng một số văn hữu ở Cali mà
các niên san mang cùng tên đã ghi lại
các kỷ niệm
cũ xứ Huế với nhiều cây bút nổi tiếng,
các Nhóm Đồng Khánh – Quốc Học ở Canada v.v... Một
tác phẩm gần đây viết về Huế như Từ
Điển
Tiếng Huế
của bác sĩ Bùi Minh Đức
cũng có tiếng vang trong giới nghiên cứu văn học
hải ngoại. Tác phẩm Thuyền
Ai Đợi Bến
Văn Lâu
của Nguyễn Lý Tưởng,
xuất bản năm 2001 tại Cali cũng có nhiều
sưu khảo hữu ích cho những ai muốn tìm hiều
về lịch sử Thuận Hóa. Ba tập Các
vua cuối
nhà Nguyễn
của Vũ Ngự Chiêu, một số bài
biên khảo có
liên quan đến Huế trong các tác phẩm của Trần
Gia Phụng như Huế
qua những chặng đường,
hoặc Thi
cử tại Huế
, Những
Câu Chuyện Chung Quanh Điện
Thái Hòa
v.v... hay Một
Thời
Hoàng Tộc
của Bảo Thái hoặc Sau
Bức Cấm
Thành Nhà Nguyễn
của Hứa Hoành cũng
đã đóng góp nhiều tư liệu cho việc khảo
cứu về xứ Huế.
Một
vài ghi nhận về các sách vở biên khảo ở
trong
nước của một số học giả gốc Huế
như Cố
Đô Huế
của Thái
Văn Kiểm (in năm 1960) giáo sư Bửu Kế với
tác phẩm Chuyện
Triều Nguyễn
(Nxb. Thuận Hóa 1990), các tài liệu biên
khảo của giáo
sư Phan Văn Dật, hoặc như tác phẩm Phòng
Thành Huế,
và cuốn sách Kiến
Trúc Cố Đô Huế
(song ngữ Việt, Anh) của Phan Thuận An (xuất thân
là sinh viên ngành sử tại Đại học Văn khoa Huế
1962-65 với luận án Cao học Sử viết về kiến
trúc kinh thành Huế), tác phẩm 34
Năm Cầm Quyền của
Chúa Nguyễn Phúc Chu
của Lê Đình Cai là sách có
đề cập nhiều đến các cơ cấu chính
trị, kinh tế, xã hội Huế và Đàng Trong) do
nhà xuất
bản Đăng Trình in năm 1971 tại Huế, còn
được giới nghiên cứu sử học trong
nước và hải ngoại sử dụng. Một tác giả
khác, nhà sử học Lê Ngọc Bích 18 mà
hầu hết công
trình của ông đều giành vào một chủ đề
nhất định là lịch sử đạo Công Giáo ở
Việt Nam, trong bộ Nhân
Vật Giáo Phận Huế gồm hai tập gần 700 trang,
khổ lớn ấn hành năm 2000, cũng đã góp thêm
một
cái nhìn rất phong phú, sâu sắc vào
đời sống tôn
giáo của Thừa Thiên, Huế và một số tỉnh
trong Địa phận Huế từ những buổi
sơ khai và về sau. Ngoài ra cũng cần kể thêm một
vài tác giả mới như Hồ Vĩnh, Nguyễn Đắc
Xuân, Duy Từ v.v... cũng có một ít tập sách
mỏng kể
chuyện vua quan triều Nguyễn, đa số dùng lại
tư liệu của một số sách báo trước
đây và cũng không đặt nặng vấn đề
áp dụng phương pháp sử học đứng đắn
trong công tác biên soạn.
Trong
lịch sử nước nhà, Huế hiện ra như một
khối lượng khổng lồ những quần thể
di tích, những đền đài miếu mạo, cung điện,
phủ đệ, các kho thư tịch cổ chứa đầy
dấu ấn của quá khứ mà ba mươi năm tìm
tòi, khảo cứu và công bố các công
trình đã biên khảo
được, linh mục Léopold Cadière, sử gia uyên
bác của
Tạp chí Bulletin
Des amis Du Vieux Hué
(Đô Thành Hiếu Cổ) 1914-1944, một nhà Huế học
thời danh, đã viết trong phần dàn bài sưu tầm
dành cho “Những người bạn cố đô Huế” rằng:
“Huế
đúng ra là công trình của người An-nam
đã đem hết
công sức sáng tạo ra và chính ở đây
người ta
khắc lại một cách sâu sắc hơn nơi nào hết
trong thời gian này về cái dấu ấn quốc gia của
họ..”
Bài học lịch sử
thường có giá trị sâu sắc nhất là khi lịch
sử
bắt đầu từ chỗ đáng bắt đầu,
mà Huế chính là chỗ bắt đầu và phát
triển của
một quốc gia Việt Nam thống nhất vậy.
Nguyễn
Đức Cung
Jersey
City 06/ 03/2003
CHÚ
THÍCH :
1.- Tạp chí
biên tập cứ
ba tháng xuất bản một kỳ, có tên là Bulletin
Des
Amis Du Vieux Hué,
và tên Việt Nam là Đô
Thành Hiếu
Cổ.
Gần đây nhà xuất bản
Thuận hóa đã cho dịch ra Việt ngữ hầu hết
các số báo này xuất bản từ năm 1914 đến
1944, in thành 7 tập gồm hơn 15,000 trang bản thảo.
2.- Trần Gia Phụng, Những
câu
chuyện Vịệt sử, tập 2,
Huế
qua những chặng đường,
nxb Non Nước,
Toronto, Canada, 1999, tr. 139. Một tài liệu đặt vấn
đề nghi ngờ sự kiện liên kết này. (Tài liệu - HYPERLINK
"http://www.hue.vnn.vn").
3.-
Các cuộc hôn nhân này, người Tây phương
thường
gọi là diplomatie matrimoniale (ngoại giao hôn nhân).
4.-Toàn
bộ bài thơ của Thái Xuyên Hoàng Cao Khải như
sau:
Đổi chác khen ai
khéo nực
cười,
Vốn đà không
mất lại
thêm lời.
Hai châu Ô
Lý vuông nghìn dặm
Một gái Huyền
Trân đáng mấy
mươi?
Lòng đỏ khen ai lo
việc
nước,
Môi son phải giống
mãi trên
đời.
Châu đi rồi lại
châu về
đó,
Ngớ ngẩn trông nhau
mấy
lũ Hời.
5.-
Câu thơ xuất phát từ ý thức kỳ thị chủng
tộc trong thời đại phong kiến. Cụ Tiểu
Cao Nguyễn Văn Mại cho rằng câu thơ này ứng
vào việc vua Lý Nhân Tông gả công
chúa Khâm Thánh cho tù trưởng
Vị Long là Dương Tự Minh ở Thanh Hóa.
6.-
Hương Giang Thái Văn Kiểm, Việt
Nam Tinh Hoa,
Mõ Làng xuất bản 1997, trang 133.
7.-
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam Nhất Thống Chí,
Nhà xb Thuận Hóa, Tập 1,
1997, trang 83.
8.-
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam Nhất Thống Chí,
Nxb. Thuận Hóa, Tập 1,
1997, trang 16-23. Phan Thuận An, Kiến
Trúc Cố Đô Huế,
Nxb. Thuận Hóa, trang 15-21.
9.-
Phan Thuận An, Sách đã dẫn, tr. 72.
10.- Phan Thuận An, Sđd, tr.
70.
11.- Phan Thuận An, Sđd, tr.
72.
12.- Phan Thuận An, Sđd, tr.
73.
13.- Phạm Duy, Tài
liệu Internet,
Ca nhạc phòng.
14.- Trần Gia Phụng, Sđd,
trang 148.
15.- Nguyên Hương
Nguyễn
Cúc chủ biên, Tập san Tiếng
Sông Hương,
chủ đề Huế
đẹp – Huế thơ,
Dallas, 2001, bài Ngũ
sắc Huế trong thi ca,
Phương Anh Trang, trang 26.
16.- Hội Đồng
Hương Thừa Thiên – Huế, Atlanta, Georgia, Giai
Phẩm Hương Giang,
Xuân Quý Mùi 2003, trang 167.
17.- Hội Đồng
Hương Thừa Thiên – Huế, Atlanta, Georgia, Giai
Phẩm
Hương Giang,
Xuân Quý Mùi, 2003. Bùi Tùng, Triết
lý sống
của người Huế: nghèo mà sang, trang 112-113.