TRÁCH
NHIỆM CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
TRONG
CÔNG CUỘC DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM
TS.Lâm
Lễ Trinh
LTS: Dưới
đây là bài nói chuyện có ghi âm
của Ls Lâm Lễ Trinh
trong buổi giới thiệu sách “Tuyết Xưa, Viết
về Văn học” của Gs Trần Ngọc Ninh ngày 29.9.2002
tại Viện Việt Học, Intitute of Vietnamese Studies,
ở số 15355 Đại lộ Brookhurst, Westminster,
Californie.
Sau
sự giới thiệu và phân tích khá đầy đủ
của ông Viện trưởng Nguyễn Khắc Hoạch
và nhà thơ Viên Linh, tôi xin mạo muội
góp thêm một vài
nhận định và ý kiến về quyển sách
“Tuyết Xưa” do ông bạn Trần Ngọc Ninh đã có
nhã ý đề tặng.
Sáng
tác rất công phu này gồm có ba phần: 1)
các tạp bút mà
tác giả hài hước mệnh danh “rơm rác đời
làm báo” đăng trước năm 1954, lúc còn
là sinh viên y
khoa, trong tập san y học Vui Sống tại Hà Nội. 2)
một số diễn văn và bài nghiên cứu sau 1954,
về nguồn gốc văn hóa thái cổ Việt Nam và
các
mối liên hệ với dân tộc, lịch sử, xã hội…
3) Ý nghĩa và vai trò của huyền thoại dân
tộc.
Nhiều hình ảnh và minh họa mỹ thuật
được trình bày khoa học qua 320 trang sách.
Nơi
đây, tôi chỉ
đề cập đến hai phần chót trong đó có 3
điểm đáng được đem ra thảo
luận thêm:
A
– Trước hết, vấn đề định
nghĩa Dân tộc và Văn hóa.
Theo
tác giả Trần Ngọc Ninh, Dân tộc là “một
khối người có chung một nguyên tổ trong
huyền sử, một ngôn ngữ chung và một văn hóa
chung” (trang 180,181,182). Và ông đã định nghĩa
ngắn gọn “Văn hóa là cái mà ta khác
họ” về ý
thức hệ và trong cuộc sống. (trang 112).Trên thực
tế, vấn đề định nghĩa phức
tạp hơn nhiều từ khi hai ngành khoa học mới
mẻ về nhân chủng (anthropology) và ngôn ngữ
(linguistique) xâm nhập lãnh vực nghiên cứu văn minh
và
văn hóa.
Đúng
vậy, Dân tộc và Văn hóa là đề tài
tranh luận
sôi nổi những thập niên gần đây. Hai nhà
nhân
chủng học Kroeber và Kluckhohn xác nhận đến nay,
có ít nửa 163 định nghĩa khác nhau về Dân
tộc. Định nghĩa của kinh tế gia
Đức Max Weber, lãnh tụ CS Nga Josef Stalin và nhà
sử
học Pháp Ernest Renan thường được nhắc
đến. Weber quan niệm Dân tộc là một nhóm
cộng đồng sắc tộc kết tụ bởi
sự tin tưởng họ thuộc một nòi giống
riêng, đồng hướng về một quyết tâm
chính trị và được phó thác một sứ mạng
văn hóa. Đối với Stalin, đời sống kinh tế,
ngôn ngữ chung và lãnh thổ là ba yếu tố
chính
yếu. Còn Ernest Renan thì ông cho rằng Dân
tộc là một
hình thức đạo lý (a form of morality), một giác
quan
hợp quần (a sense of solidarity), phát sinh từ một ý
thức lịch sử đặc biệt, (a distinctive
historical conscience). Dưới lăng kính nhân chủng học,
Gs Clifford Geertz quan niệm hai yếu tố cấu tạo
chủ nghĩa dân tộc là sắc tộc và công
dân bổ
túc lẫn nhau trong khi vẫn đối địch.
Về
Văn hóa, trước thập niên 60, có hai định
nghĩa xem như sáng giá nhất, do hai nhà nhân
chủng
học trứ danh Edward Tyler, gốc Anh, và Kenneth Lowie,
gốc Mỹ, đề nghị. Theo Tyler văn hóa là “những
năng khiếu và tập quán thụ đắc bởi con
người với tư cách một thành viên của xã
hội.” Còn Lowie thì ông cho rằng văn hóa
là “tất
cả những gì một cá nhân thu thập được
từ cộng đồng xã hội như một di
sản của quá khú chớ không phải do các cố
gắng của bản thân.” Thập niên 70, quan
điểm trên đây bị nhiều thức giả kích
bác, trong số này có Clifford Geertz, tác
giả của quyển
sách danh tiếng “The Interpretation of Cultures” (NY Basic
Books, 1973).
Khuynh hướng mới chủ trương ngành nghiên
cứu văn hóa cần có tính cách giải
thích, hướng
về việc tìm ý nghĩa, thay vì là một
môn khoa học
thực nghiệm nhằm mục đích khám phá định
luật. Văn hóa không còn là một khái
niệm thuần
nhất nữa. Văn hóa được phân tích như “những
màng tơ ý nghĩa do chính con người dệt chằng
chịt xung quanh mình để rồi bị vướng
mắc trong đó - Webs of significance which man himself has spun
and
in which he is suspended.”
Tại
Việt Nam, trong tác phẩm “Việt Nam Văn hóa sử
cương”, học giả Đào Duy Anh định
nghĩa tổng quát : “Văn hóa không những bao gồm
học thuật tư tưởng mà còn liên hệ
đến tất cả các phương tiện sinh
hoạt của con người.” Hoàng Văn Chí, tác
giả của “Văn hóa sử quan”, sai lầm khi phân
biệt Văn hóa và Văn nghệ và ông đề nghị
tạm định nghĩa văn hóa như “lối sinh
hoạt và suy nghĩ của nhân loại.” Gs Nguyễn
Khắc Kham, trong bài khảo luận “Đặc sắc
của nền văn hóa Việt Nam”, nhận định
Việt Nam có một nền văn hóa “đa nguyên
mà
lại có đặc tính nhất nguyên”. Đa nguyên
vì
kết tụ nhiều nền văn hóa khác nhau, phát
xuất từ Phật giáo qua Ấn Ðộ, từ Tây
Phương qua ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo,
từ Trung Quốc dưới hình thức Khổng và Lão
giáo, không kể văn hóa thạch khí Hòa
Bình, thạch khí
Bắc Sơn, đồng đen Đồng Sơn v.v…
Nhất nguyên, mặt khác, vì Việt Nam thành
công dung hợp
các trào lưu văn hóa nói trên để khởi
sắc
phong phú. Khá đông học giả Tây Phương, đa
số là người Pháp, như Dufell, Ernest Gourou, và
Charles
Robequain, đã nghiên cứu sâu sắc thực chất và
đặc tính của nền văn hóa Việt.
B
– Thứ nữa, “sự thăng trầm và sống chết
của các văn hóa” được đề cập trong
Tuyết Xưa từ trang 97 đến 186.
Tác
giả Trần Ngọc Ninh cho rằng các nền văn hóa,
lớn hay nhỏ, vô danh hay hữu danh, vì là nhân
tạo nên
phải trải qua bốn giai đoạn - như bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông - chớm nở, phát
triển,
vượt đến tột đỉnh để
rồi tàn lụi dần dần và tắt hẳn. Theo Gs
Trần Ngọc Ninh, văn hóa không biến đổi là
văn hóa chết. Văn hóa phải đổi mới
“nhật tân, hưu nhật tân, nhật nhật tân” như
Khổng Tử căn dặn. Một nền văn hóa có
thể tan vỡ vì hai lý do: do sự cưỡng bách thay
đổi toàn diện (trường hợp cổ Ai
Cập bị Hy Lạp chinh phục rồi bị La Mã
đô hộ; trường hợp Đức Quốc Xã
từ bỏ sứ mệnh văn hóa của mình) hay tình
trạng “ chia rẽ và đối kỵ trong lòng dân
tộc”.
Để
kết luận, tác giả nhắc lại câu nói của Paul
Valéry: “Chúng ta, các văn minh, biết rằng
chúng ta
đều phải chết - Civilisations, nous savons que nous
sommes mortelles.” Nói cách khác, văn
hóa cam chịu số
phận phù du, sớm nở tối tàn.
Nơi
đây, chúng tôi xin phát biểu một sự e
dè. Thật
vậy, lịch sử chứng minh những nền văn
hóa lớn ảnh hưởng mạnh đến nhân
loại thường đi kèm với sức mạnh
về quân sự như các đế quốc cổ
đại Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, Persia, Ấn Ðộ,
Đế quốc Anh trước Đệ nhị Thế
chiến v.v… Khi văn hóa (culture) tạo ra được
một nền văn minh (civilisation) vượt xa ngoài biên
cương quốc gia thì dù những đế quốc này
sụp đổ đi nữa, ảnh hưởng của
họ về trí tuệ và kỹ thuật không chấm
dứt. Ngạn ngữ VN có câu: Hùm chết để da.
Khoa học nhân văn La Hy (les humanités
gréco-latines), nền Hòa
bình Pax Romana, khái niệm về vũ trụ nhân sinh của
Socrate, Aristote, Eschyle và Sénèque.. nay vẫn
được
nhắc mãi và giữ nguyên giá trị.
Trong
tạp chí Foreign Affairs, Feb.1998, Gs Samuel Huntington,thuộc
đại học Harvard, tiên đoán thiên niên kỷ
này
sẽ dự kiến một va chạm nảy lửa
giữa các nền văn minh đối nghịch (a clash of
civilizations) trong đó tôn giáo đóng vai
trò hệ trọng.
Sự đối đầu sẽ tàn khốc hơn hai
Thế giới Đại chiến vừa qua vì dựa vào
tín ngưỡng.
C
– Sau hết, sự tranh luận về giá trị của
Huyền thoại dân tộc trong Văn hóa thái cổ VN
được tác giả đề cập trong 97 trang chót
của Tuyết Xưa. Phần này quả là một khám phá
thích thú đối với người đọc.
Tại
Việt Nam, công việc chép sử chỉ bắt
đầu dưới Triều Lý (1010- 1225),
được kiện toàn dưới Triều Trần
(1225-1400) và tương đối hoàn chỉnh dưới
Triều Lê (1418-1527). Vì chiến tranh liên
miên, nhiều
văn kiện lịch sử bị tiêu hủy hay thất
lạc. Từ Triều Lý trở lên về trước,
gần bốn ngàn năm, lịch sử Việt Nam không
được ghi chép vào văn bản. Để đánh
dấu những giai đoạn phát triển của dân
Việt từ thời Hồng Bàng (2879-258 trước tây
lịch), các sử gia phải căn cứ vào những
lời truyền tụng, những di tích, hiện vật
như cung tên, khí giới, trống đồng, đồ
gốm..vv.., đặc biệt vào vô số huyền
thoại liên hệ đến nguồn gốc của
Đất nước và Dân tộc do cha ông chúng ta thừa
kế từ đòi trước và truyền lại cho các thế
hệ sau.
Vào
cuối thế kỷ 14,
thời Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Trần
Thế Pháp là người đầu tiên sưu tầm
những huyền thoại ấy và chép lại trong một
tài liệu tựa đề Lĩnh Nam Chích Quái. Năm 1492,
cuối thế kỷ 15, tác giả Vũ Quỳnh sắp
xếp lại tác phẩm này thành một văn bản
mới. Tiếp theo quyển Lược khảo về
Thần thoại Việt Nam (1956) của Nguyễn
Đổng Chí, Tiếng Đông Phương xuất bản
năm 1973 quyển sách dày 665 trang của Hoàng Trọng
Miên
mang tên “Việt Nam Văn Học Toàn thư, Thần
thoại Cổ tích”, có thêm vào nhiều câu
chuyện của
các sắc tộc thiểu số. Ngoài ra, cũng nên kể
tác phẩm Légende des Terres Sereines của Gs Phạm Duy
Khiêm
viết bằng Pháp văn. Các học giả vừa nói
dùng
huyền thoại để làm văn chương hơn là
thực hiện một công tác nghiên cứu khoa học.
Huyền
sử đi trước lịch sử, không phải là
lịch sử nhưng tại Việt Nam, phản chiếu
một cách sâu đậm tâm lý và tâm
linh dân tộc. Vì
thế chúng ta cần tìm hiểu huyền thoại theo
nghĩa nổi và nghĩa chìm. Tôi đồng ý với
tác
giả của Tuyết Xưa khi ông khẳng định
huyền thoại Việt Nam là “những di ngôn của
Tổ tiên để lại từ thời lập quốc,
những nét đặc thù của văn hóa dân tộc"
phải được bảo vệ và khảo sát theo
phương pháp khoa học.
Đi
xa hơn nữa, tôi nghĩ mỗi huyền thoại
đều nhắn gởi một sứ điệp
thực tiễn của Cha Ông. Vì thế cần nghiên
cứu để nhận thức ý nghĩa của các
sứ điệp ấy và khai khác những mạch
sống mới trong công cuộc đấu tranh sắp
tới.
Từ
Âu sang Á, tại các quốc gia có một nền văn
hóa
cổ kính, kể cả những xứ tự nhận là
“tiến bộ”, mọi vấn đề nguồn gốc
đều có tính cách kỳ diệu. Ở Việt Nam, qua
nhiều thế kỷ, quần chúng, từ lúc mở
mắt chào đời, sống giữa vô số huyền
thoại truyền khẩu: Âu Cơ, Lạc Long Quân, Sơn
Tinh, Thủy Tinh, Phù Đổng Thiên Vương, Trọng
Thủy, Mị Châu, Chử Đồng Tử, Sự tích
Trầu Cau, Bánh Dày và Bánh Chung của Lang
Liệu, Thằng
Cuội và Cây Đa, Trương Chi và Mỵ Nương
v.v... Đây không hẳn là chuyện hoang đường,
sản phẩm phi lý của trí tưởng tượng.
Trong
quyển sách “Tổ quốc ăn năn”, nhà báo Nguyễn
Gia Kiểng đã bị dư luận phê bình gắt gao khi
ông châm biếm giá trị của huyền sử và
đề nghị thẩm lượng lại những nhân
vật lịch sử lớn như Quang Trung Nguyễn
Huệ.
Câu
nói của Thần Kim Qui, trả lời cho An Dương
Vương: “Kẻ thù đang ngồi ở sau lưng Nhà
Vua” còn mang tính thời sự trong hoàn cảnh Đất
Nước ngày nay. Trong tâm hồn của mỗi
người Việt nặng lòng vì xứ sở, có một
Phù Đổng nho nhỏ, đợi được
đánh thức và võ trang về thể chất lẫn tinh
thần để đứng dậy, lên đường,
đấu tranh cho Quê Hương. Chúng ta gọi nhau là
Đồng Bào vì tổ tiên cùng ở trong một bọc
trứng. Khi chia năm chục người con về
Thủy phủ và 50 lên núi, Lạc Long Quân căn dặn
Âu
Cơ: “Tuy đôi bên, kẻ ở rừng, người
biển, song đến khi có việc gì thì tin cho nhau,
không
được bỏ nhau!”. Tổ tiên đề
nghị cho chúng ta phương hướng hóa giải
vấn đề muôn thuở: Khác biệt nhưng phải
Nhất tâm!
Nói
cách khác, chúng ta cần hội nhập các
bài học quý giá
rút từ một gia tài phong phú. Cần chuyển biến
những sứ điệp này thành thực tế trong sinh
hoạt hằng ngày và cách xử thế ở đời.
o0o
“Tuyết
Xưa”nói nhiều về lịch sử và huyền sử.
Để kết thúc, chúng ta hãy thoáng
nhìn về một
số hiện tượng thay đổi bộ mặt
của Văn hóa trong thế giới ngày nay:
1
–Ảnh hưởng không ngớt gia tăng của Văn
hóa đối với Chính trị.
Trong
tác phẩm best-seller “Cultural Forces in World Politics - Những
sức mạnh văn hóa trong chính trường quốc
tế”, GS Ali A.Mazrui, gốc Kenya, Phi châu, nhận
định rằng sau Đệ nhị thế chiến,
sự chia cắt địa cầu về ý thức hệ
(Dân chủ Tự do chống Xã hội chủ nghĩa) theo
lằn ranh Đông - Tây có tính cách giao
thời trong khi cái
hố phân cách Nam-Bắc về kỹ thuật và lợi
tức mỗi ngày đào thêm sâu. Theo ông,
ý thức hệ và
kỹ thuật bắt nguồn từ văn hóa; văn hóa
là trung tâm điểm của bản chất quyền
lực trong bang giao quốc tế; một nền văn hóa
hùng mạnh là “cái khiên bảo vệ hữu hiệu tự
do - a protective shield for freedom.” Với chủ đích khai
thông
dân trí, văn hóa không thể tách rời
khỏi tự do.
Văn hóa thiếu tự do không còn là văn
hóa. Một danh
từ mới “văn hóa chính trị, culture of politics”
trở nên thông dụng trong giới nhân chủng học,
ý
muốn nói; khi vi khuẩn Dân chủ và Tự do đột
nhập Văn hóa thì Chính trị bị ảnh hưởng
và buộc phải canh tân.
2-
Siêu cường Hoa Kỳ tạo ra một Văn hóa
của Sức Mạnh.
Thông
thường, hào quang văn hóa tạo uy tín và sức
mạnh tinh thần. Ngày nay, hiện tượng “Sức
mạnh tạo Văn hóa” xảy ra với nước
Mỹ. một quốc gia đa chủng, thành lập
năm 1775 bởi di dân tứ xứ. Kinh tế phong phú, khoa
học siêu đẳng, truyền thống dân chủ
vững chắc và khả năng quân sự vô địch
giúp siêu cường Hoa Kỳ gầy dựng
được Văn hóa của Sức mạnh hiện
thay đổi bộ mặt thế giới. Nền văn
minh Hoa Kỳ hiếu động, đa sắc và cuồng
nhiệt, vì thế thường bị các nước
Cựu Thế giới mỉa mai mệnh danh “Văn hóa Coca
Cola, Văn hóa trọc phú, Văn hóa Đô-la”. Sự
phát
triển mạnh của văn hóa Hoa Kỳ, nhất là
việc phổ biến gần đây chủ thuyết quân
sự Tiên Hạ Thủ Vi Cường của Tổng
thống George Busk không phải không bị phản
đối tại nhiều xứ.
Thẩm
lượng văn hóa Mỹ qua phim ảnh đồi
trụy, nhạc jazz-bebop, nếp sống vội vã và
thức ăn fast food là môt phán xét dễ
dãi và phiến
diện. Trên thực tế, Văn minh và Văn hóa Hoa
Kỳ đang đóng góp hệ trọng vào kho tàng
nhân
loại về khoa học, kỹ thuật, văn nghệ,
kinh tài và tư tưởng chính trị. Sự đóng
góp
quý giá nhất là Hoa Kỳ giúp vãn hồi
và duy trì hòa bình trên
địa cầu để bảo vệ văn hóa
của các xứ khác không bị chiến tranh tiêu
hủy.
3-
Tác dụng hàng đầu của Văn hóa trong công
cuộc
Dân chủ hóa Việt Nam.
Như
đã nêu trên đây, không thể coi Văn
hóa như một
ý niệm trừu tượng của trí tuệ. Văn hóa
là một vũ khí đa năng, đa hiệu để
thực hiện những giấc mơ cao quý của con
người, trong đó có giấc mơ hòa bình, hạnh
phúc. Bá quyền chính trị không bao giờ chấp
nhận
văn hóa tự do mà chúng xem là phản động.
Trước cái thiện và cái ác, người văn
nghệ sĩ VN không thể trung lập. Đứng trên hay
ngoài chính trị, khi sự tồn vong của dân tộc
và
phát triển của đất nước tùy thuộc
hơn lúc nào hết vào dân chủ và tự do,
là một sai
lầm nguy hại. Không có ý kiến cũng là
ý kiến, ý kiến
của kẻ trốn trách nhiệm.
Nhà
cầm quyền CS hiện chủ trương giao lưu
văn hóa một chiều và nơm nớp lo sợ sự
tấn công của văn hóa đối kháng có tổ
chức. CS hãy hóa giải trước, rồi nói
đến hòa giải sau. Miệng cổ võ giao lưu
nhưng lòng tính toán hợp lưu.
Qua
siêu xa lộ điện tử, tư tưởng của
những người biệt kích cầm bút có thể
đột nhập lãnh địa đối phương
dễ dàng và mau chóng hơn cả hỏa tiễn và phi
cơ siêu âm để khích động quần chúng.
Cộng đồng hải ngoại nên siết chặt hàng
ngũ để đánh liên tục và tới tấp vào
các
kẽ hở “cởi mở” của chế độ Hà
Nội bằng cách quảng bá sâu rộng những ý
niệm dân chủ và pháp trị. Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ không vì bom đạn nhưng
vì
trận tuyến tuyên truyền dai dẳng của Thế
giới tự do.
Trong
lịch sử nhân loại, những cuộc cách mạng
thành công bền vững không phải là những cuộc
cách
mạng đẫm máu mà là những chiến thắng
của lý trí và ý thức hệ.
LÂM
LỄ TRINH
Ngày
29.9.2002
Californie
THƯ
TỊCH:
*
“Cultures, A critical review of concepts and definitions” của Kroeber
và
Kuckhohn, Random Publishers, London 1952.
*
“Cultural forces in World politics” của Ali A.Mazrui, 1998, Houghton
Miflin Co, London.
*
“The interpretation of cultures” của Clifford Geertz, New York Basic
Books, 1973.
*
“Les traits fondamentaux de la civilisation vietnamienne” của
Thái
Văn Kiểm, L’Harmatan Paris 1996.
“Qu’est
ce qu’une nation” của Ernest Renan; “The Nation” của Josef Stalin:
“Économie et Société” của Max Weber.