Phan Chu Trinh:
Nhà Yêu Nước Ðấu Tranh
Cho Dân Quyền
Lê Tùng Minh
"Vẻ
vang thay cái oai quyền dân chủ!
Gớm ghê thay cái dục vọng của quân chủ!"
(1) Ðây chính là quan niệm căn bản của Phan Chu
Trinh,
một nhà yêu nước đấu tranh cho Dân Quyền.
Ðể có cái
nhìn sâu sắc như vậy trong việc so sánh giữa
Dân
Chủ và Quân Chủ, Phan Chu Trinh đã lận đận
trên đường tìm chân lý cách mạng trong
suốt
hơn 20 năm (1905-1925). Cuộc đời yêu nước
nhiệt thành của ông cùng với quá
trình hoạt
động vận động cho dân chủ của Phan Chu
Trinh là một bài học lịch sử quý giá cho
thế
hệ ngày nay học tập.
I - Thân
Thế Và
Học Vấn
Phan Chu Trinh
tên chữ là Tử Cam, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu
Hy Mã, sinh vào ngày 9-9-1872 (tháng
Tám năm Nhâm Thân) tại làng Tây
Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
Cha của
ông là cụ Phan Văn Bình, một võ quan của
triều
đình Huế. Mẹ của ông là bà Lê Thị
Chung,
xuất thân trong một gia đình vọng tộc, thông
thạo chữ Hán và rành thi phú. Phan Chu
Trinh có 3 anh chị em
mà ông là con út trong gia đình.
Chẳng may bà mẹ mất
sớm nên sự rèn luyện, dậy dỗ trên
đường học vấn của ông đã bị
bỏ dở từ lúc bé. Còn cha của ông bận lo
việc quan võ, ít khi ngó ngàng đến việc học
của ông. Vì thế, mãi đến năm 10 tuổi (1882)
ông mới cắp sách đến trường.
Từ
năm 10 tuổi đến năm 17 tuổi (1882-1889), Phan
Chu Trinh hoàn toàn không chuyên tâm
học hành, không phải vì ông
không thông minh, mà vì chán học lối
từ chương
trích cú. Trong thời gian này, Phan Chu Trinh lại
thích học
võ theo ý muốn của cha, phòng "ứng dụng
vào
việc đánh giặc cứu nước" (ông
học võ từ lúc 13 tuổi) . Lúc này, cha của
ông đang
theo phò Hàm Nghi kêu gọi cần vương cứu
nước, lãnh nhiệm vụ "chuyển vận
sứ" ở đồn An Bá thuộc phủ Tam Kỳ.
Nhưng đến năm Ðinh Hợi (1887), cha của ông
đã bị giết (?). Phan Chu Trinh vô cùng đau
xót vì
nỗi bạc mệnh của cha.
Một
năm sau (1887) lại thêm một tin sét đánh có
quan hệ
đến sự nghiệp cần vương cứu
nước, đó là tin: Vua Hàm Nghi đã bị hai
tên
phản quốc là Trương Quang Ngọc và Nguyễn
Ðịnh Tĩnh bắt nộp cho Pháp, và bị Pháp
đưa đi đầy tận bên xứ Algérie. Phan Chu
Trinh lúc này đã đến tuổi 16 - tuổi bắt
đầu có nhận thức về những sự
biến của đất nước, dân tộc.
Phan Chu Trinh
thấm nỗi đau bạc mệnh của cha, lại
càng thương xót khốn cảnh của vua Hàm Nghi,
uất hận tên phản bội Trương Quang Ngọc
qua câu nói của nhà vua đối với Trương Quang
Ngọc rằng: "Mày hãy giết tao đi, còn hơn
là
đưa tao về nạp cho Tây." Do đó, Phan Chu
Trinh quyết định trở lại con đường
học vấn, vì ông nghĩ ra một chân lý: "Một
dân tộc muốn tự cường, trước hết
phải có dân trí. Muốn đạt được dân
trí,
phải cải cách nnền giáo dục cũ, dựng
nền học thuật mới cho dân tộc!" Cho nên
Phan Chu Trinh quyết tâm nhờ sự giúp đỡ của
người anh cả rước thầy về nhà
để học lại, nhằm đạt
được mục đích cứu nước của
tuổi trẻ! Ðó là vào năm 1889, Phan Chu Trinh
đã lên 17
tuổi.
Trong 4 năm
(1889-1892) Phan Chu Trinh đã theo học tại nhà do cụ
đốc Trần Mã Sơn dậy dỗ, rèn luyện.
Thấy Phan Chu Trinh thông minh, khẳng khái, hay tranh biện
với lẽ phải, nên cụ Mã Sơn rất yêu mến
và bổ Phan Chu Trinh vào ngạch Học Sinh của triều
đình.
Từ
năm 1893, Phan Chu Trinh đã ra học ở trường
ngoài. Sau 7 năm dùi mài kinh sử (1893-1900) Phan
Chu Trinh đã
đỗ Cử Nhân vào kỳ thi năm Canh Tý (1900) .
Và
năm sau, năm Tân Sửu (1901) Phan Chu Trinh đã
đỗ Phó Bảng. Thế là, đến năm 29
tuổi, Phan Chu Trinh đã làm rạng rỡ tông môn
và
đạt được sở nguyện trên
đường học vấn.
II.
Công Danh Và Sự
Nghiệp Cứu Nước
Con
đường công danh của Phan Chu Trinh chỉ là phù du
trong một thời gian ngắn ngủi.
- Năm Nhâm
Dần (1901) làm Hậu Bổ ở Huế không bao lâu, nghe
tin người anh cả mất, Phan Chu Trinh trở về
quê dậy học.
- Năm Quý
Mão (1903) Phan Chu Trinh được bổ nhiệm chức
Thừa Biện Bộ Lễ tại triều đình
Huế.
Len lỏi
trong chốn quan trường từ năm 1903 đến
năm 1905, Phan Chu Trinh quá chán chường tệ quan
liêu
thối nát, và xót xa cái nỗi còn lắm
nho sĩ quá hũ
bại giữa lúc Tổ Quốc đang mất trong tay
thực dân Pháp! Vì vậy, nhân lúc
còn cái thế quan
trường, ông đã tìm cơ hội để giao du
với những trí thức tân học như các cụ Thân
Trọng Huề, Ðào Nguyệt Phổ. Chính hai nhà
tân học
Việt Nam này đã cho Phan Chu Trinh mượn để
nghiên cứu các sách được gọi là "Tân
Thư"
của các ông Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi,
Ðàm
Tự Ðồng (Trung Quốc); của Montesquieu, J.J. Rousseau...
Nhờ thế mà Phan Chu Trinh đã sớm nhận ra "Dân
Trị Chủ Nghĩa", và cương quyết từ
quan để đi theo con đường đó!
Năm
Ất Tỵ (1905), Phan Chu Trinh từ quan về quê
để chuẩn bị cho cơ hội hoạt
động cứu nước theo đường
hướng riêng của mình.
Trước
khi từ quan (1904), Phan Chu Trinh có tiếp xúc với Phan
Bội Châu khi Phan Bội Châu mới từ Nghệ An vào
Huế (2). Ngày từ lần tiếp xúc đầu tiên này,
hai nhà yêu nước họ Phan đã có một
vài bất
đồng về quan điểm thực hành cách mạng
giải phóng dân tộc! Quan điểm bất đồng
sẽ bộc lộ rõ khi hai ông gặp nhau ở Nhật
Bản (sẽ trình bầy ở phần sau) .
Ðúng vào
năm Phan Chu Trinh từ quan (1905) cũng là lúc cuộc
chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ (Thời ấy gọi
là Nga-Nhật Chiến Kỷ). Phan Chu Trinh tự thấy
đã đến cơ hội thực hành chí hướng
"Dân Trị Chủ Nghĩa" mà ông đã nuôi
dưỡng trong mấy năm qua (1903-1904) bằng cách
đi diễn thuyết khắp nơi để thức
tỉnh đồng bào. Phan Chu Trinh đã kết giao
đồng chí với Huỳnh Thúc Kháng và Trần
Quý Cáp,
tổ chức một chuyến vào Nam Kỳ để
vận động Duy Dân.
Cái chí
lớn của Phan Chu Trinh lần đầu tiên đã công
khai thể hiện trong bài thơ "Chí Thành Thông
Thái".
Thơ rằng:
"Gẫm
thế sự càng ngao ngán nỗi,
Ðoái
giang san tức tối anh hùng.
Ðoan`
dân nô lệ đã xong,
Sĩ
phu còn ở trong vòng say mê!
Thân
nhục nhã ê chề muôn kiếp,
Biết
ngày nào khỏi nghiệp oan gia!
Ai
ơi, tưởng nước đến nhà,
Bài
này mở mắt xem qua một lần." (3)
Nhưng ý
nguyện vào Nam Kỳ để vận động Duy Dân
không thành, bởi vì khi tới Phan Thiết thì
Phan Chu Trinh lâm
bệnh! Chuyến đi Nam Kỳ bị đình lại.
Phan Chu Trinh ở lại Phan Thiết trị bịnh,
mấy tháng sau mới trở về Huế. Trong thời
gian ở Phan Thiết, Phan Chu Trinh đã được
nhiều thân hào nhân sĩ địa phương tích
cực hưởng ứng kêu gọi Duy Tân của ông. Phan
Chu Trinh đã tranh thủ thời gian lưu lại ở
Phan Thiết, mở lớp quảng bá về "Tư
tưởng cách mạng của Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu", được đông
đảo các nho sĩ và đồng bào địa
phương tham dự.
Sau khi về
Huế, được tin Phan Bội Châu đã sang
đến Nhật, Phan Chu Trinh liền ra Bắc,
đến vùng Yên Thế (Bắc Giang) để yết kiến
Hoàng Hoa Thám (Ðề Thám). Sống tại Yên
Thế mấy
tháng, tiếp kiến, luận đàm với Ðề Thám
vài
lần, ông thấy quan điểm đấu tranh võ trang
của Ðề Thám không hợp với quan điểm ôn
hoà
bất bạo động của mình, nên Phan Chu Trinh
đành rời khỏi Yên Thế. Sau khi rời khỏi Yên
Thế, Phan Chu Trinh tìm cách xuất dương sang Nhật
(2-1906) để tìm hiểu nước Nhật và gặp
Phan Bội Châu, trao đổi kế sách cứu
nước.
Cuối tháng
2-1906, Phan Chu Trinh đã đến Hương Cảng và
đã gặp Phan Bội Châu tại nhà của Lưu
Vĩnh Phúc ở Quảng Ðông. Trong 10 ngày ở Quảng
Ðông, tình chiến hữu của hai nhà yêu nước
họ
Phan thật đậm đà, tuy nhiên họ vẫn hoàn toàn
xa cách nhau về quan điểm!
Theo lời
tự thuật của Phan Bội Châu thì Phan Chu Trinh "hết
sức công kích tội ác của dân tặc độc phu,
mà
nói đến hiện triều quân chủ, họa quốc
ương dân càng tỏ ra ý nghiến răng, rách mắt,
hình như cụ nghĩ rằng cái tệ quân chủ chuyên
chế không trừ thì tuy phục quốc cũng vẫn
chưa phải là hạnh phúc". Và Phan Chu Trinh
"mới tự làm một bức thư cảnh cáo,
đem đi in, cuối thư tự ký tên 'Dân Tặc
Hậu Cường Ðể'" (4).
Trong thờ
gian ở Nhật, cũng theo lời tự thuật
của Phan Bội Châu, rằng "Hồi tôi lên đông
Kinh, cụ Tây Hồ cùng đi với tôi, tham quan khắp
các học đường, và khảo sát khắp những
công việc chính trị giáo dục của Nhật Bản,
cụ bảo tôi rằng "Trình độ dân
Nhật Bản như thế, mà trình độ dân ta như
thế, không nô lệ làm sao được! Ðược bao
nhiêu học sinh vào học trường học Nhật
Bản là sự nghiệp rất lớn của ông. Từ
nay nên lưu Ðông yên nghỉ, chăm việc làm
sách, bất
tất nói bài Pháp làm gì. Chỉ
nên đề xướng dân
quyền, dân ta đã biết có quyền thì việc
có
thể tính lần được." Từ đó luôn
mười ngày hơn, tôi với cụ bàn bạc, ý
kiến rất trái nhau. Cụ thì muốn đánh đổ
quân chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân
quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ
quân chủ.
Còn ý của tôi thì trước muốn đánh đổ
người Pháp, chờ lúc nước nhà độc
lập rồi mới bàn đến việc khác.
Ðương lúc đánh với Pháp phải lợi dụng
quân chủ." (5)
Cuối
năm Bính Ngọ (1906), Phan Chu Trinh trở về
nước; khi chia tay với Phan Bội Châu ông có
nói: "Quốc
dân chỉ hy vọng nơi ông, Kỳ Ngoại Hầu không
cần gì đâu." (6)
Từ khi
về đến nước nhà, Phan Chu Trinh đã không còn
liên hệ với Phan Bội Châu và tổ chức Duy Tân
Hội do Cường Ðể làm minh chủ. Phan Chu Trinh
quyết tâm thực hiện chính kiến qua bức thư
gửi cho toàn quyền Beau (15-8-1906), và việc này
đã
trở thành câu chuyện: "Phan Chu Trinh đầu thư
cho chánh phủ Pháp" (nguyên văn chữ Hán
là:
"Ðầu Pháp chính phủ thư" - Bản Việt
ngữ do Ngô Ðức Kế dịch).
Bức
thư dài đến 20 trang in (khổ 12x20 cm) với
nội dung chủ yếu là phê phán "chính phủ
bảo hộ ngược đãi người Việt nam,
không hề lấy nhân đạo mà đãi người
Việt Nam bao giờ"; và vạch trần bản
chất bảo hộ của chính phủ Pháp là "để
cho một giống nòi bóc lột lẫn nhau, tàn hại
lẫn nhau, rồi người Pháp thi hành cái kế
thực dân cho dễ". Ðồng thời, Phan Chu Trinh
cũng lên án chính phủ bảo hộ "đã dung
dưỡng cho bọn quan lại An Nam để gây nên
tệ lậu", và "khi thị sĩ dân Việt
Nam thái quá, khiến cho đôi bên phải xa
cách nhau",
do đó bọn "quan lại nhân cái sự ly gián
mà hành
hà dân" (8).
Cuối
thư Phan Chu Trinh kiến nghị rằng:
"Nếu
ngày nay chính phủ biết hối ngộ lại thì mau mau
đổi lại chính sách, kén dùng hiền
tài, giao cho
quyền binh, lấy lễ đãi người, lấy lòng
thành xử với người, rồi cùng nhau trù hoạch
cái kế sách hưng lợi trừ hại, mở cái
quyền nghị luận... mở nhà báo để thấy
rõ dân tình; minh thưởng phạt để thanh trừ
lại tệ; những việc cần thiết như
đổi pháp luật, bỏ khoa cử, mở nhà học,
dựng phòng sách, chấn hưng công thương kỹ
nghệ, các việc đều lần lượt cải
lương. Như thế thì dân An Nam ai cũng vui, lại
chỉ sợ nước Pháp bỏ nước Nam đi mà
thôi, còn có gì mà kình địch
nữa."
Ðể
kết luận, Phan Chu Trinh đưa ra hai điều
kiện với chính phủ bảo hộ: Một là, "nhận
lời nói" của ông "thì thật là hạnh
phúc cho dân An Nam lắm." Hai là, đem ông
"mà
trị vào các tội hủy báng cho thật nặng,
để làm gương cho các thân sĩ trong nước
khóa cổ ngậm miệng mà lách cho xa, chứ cho bắt
trước như tôi đường đột dám nói mà
mắc tội." (9)
Tuy toàn
bộ của bức thư là tố cáo chính sách thưc.
dân
của chính phủ Pháp và lên án gắt gao
đối với
bọn quan lại Nam triều, nhưng Phan Chu Trinh cố
dùng ngôn từ ôn hòa, nhã nhặn
và có lúc còn hạ mình như
đoạn mở đầu lá thư, rằng: "Phan
Chu Trinh đệ bức thư này lên quan toàn quyền
đại thần, tôi xin bầy tỏ cái tình hình nguy
cấp của nước Việt Nam tôi ngày nay để
quan lớn biết". Hay ở đoạn cuối
thư, Phan Chu Trinh đã viết: "nếu quan lớn
bảo hộ mà quả có tấm lòng thành thật khoản
đãi dân Nam, thì nên lượng tấm lòng
của tôi."
Dù vậy
Phan Chu Trinh vẫn không có thể làm cảm động
những tên thực dân đã rắp tâm biến nước
ta thành thuộc địa của chúng. Nhà yêu nước
Phan Chu Trinh có thể nhận thức được sự
phũ phàng này, nhưng có lẽ ông muốn thử thực
hiện chí hướng cải lương, xem thử
kết quả ra sao? Vì từ trước đến nay,
hầu như chưa có một chí sĩ nào thực hiện
phương cách cải lương như ông đã làm!
Và
kết quả chỉ là tiếng vang như một hồi
chuông khuấy động dư luận một thời! Câu
chuyện "Phan Chu Trinh đầu thư cho chính phủ
Pháp" lan nhanh trong giới nhân sĩ, trí thức
và trên quan
trường của chính phủ bảo hộ, lẫn chính
phủ Nam Triều. Từ nay, Phan Chu Trinh đã trở thành
"cái gai phải nhổ" của cả thực dân Pháp
và triều đình Huế.
Hưởng
ứng chủ trương "quốc dân phải liên
hiệp với nhau mà mở rộng đường giáo
dục và phát triển kinh tế" của Phan Chu Trinh,
ngoài Bắc, Lương Văn Can và các đồng chí
của ông mở trường "Ðông Kinh Nghĩa
Thục". Ở Trung Kỳ, Huỳnh Tùng Bá và Nguyễn
Quyền lập "Quảng Nam Hiệp Thương Công
Ty", trong Nam, các ông Trần Chánh Chiếu (Gillbert
Chiếu) và Nguyễn Thành Út đã lập "Minh
Tân Công
Ty"...
Phong trào Duy
Tân ở trong nước trong những năm 1906-1908 là do
Phan Chu Trinh cùng Trần Quý Cáp và Huỳnh
Thúc Kháng phát
động. Ðó là một phong trào yêu nước
và cách
mạng theo đường lối ôn hòa, bất bạo
động. Ðường lối này đã được
nhiều sĩ phu hưởng ứng (như Phan Thúc Duyên
ở Quảng Nam; Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết,
Nguyễn Mai, Lê Ðình Cẩn ở Quảng Ngãi; Ngô
Ðức
Kế, Ðặng Nguyên Cẩn ở Nghệ Tĩnh v.v...)
Ðường
lối Duy Tân của Phan Chu Trinh đang thực hiện
trong nước đã làm Phan Bội Châu lo ngại, nên
ông
vội vàng viết một bức thư gửi cho Phan Chu
Trinh (4-1908). trong thư có câu: "Dân
chí bất tồn,
chủ ư hà hữu", nghĩa là nếu dân đã
không còn, thì chủ có ở đây?
Không chỉ có Phan Bội
Châu, mà ở trong nước nhóm sĩ phu chủ
trương đấu tranh vũ trang để giải
phóng dân tộc đều bất đồng ý kiến
với Phan Chu Trinh!
Tháng 12-1907,
trong khi Phan Chu Trinh đang diễn thuyết ở
trường Ðông Kinh Nghĩa Thục (Hà Nội), thì
chính
quyền thực dân Pháp đã ra lệnh đóng cửa
trường Ðông Kinh Nghĩa Thục với lý do là dẹp
"cái lo phiếm loạn" ở Bắc Kỳ? Vì
thế, Phan Chu Trinh dự định trở vào Nam
để tiếp tục quảng bá đường
lối duy tân của ông. Những diễn biến của
"phong trào chống đi phu, chống sưu thuế"
mở ra ở Quảng Nam và lan ra các tỉnh Miền Trung
(2-1908) đã tạo nên một bước ngoặt mới
trên con đường yêu nước của Phan Chu Trinh.
Trường
Ðông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa! Ngày
15-10-1908,
Dương Bá Trạc bị tuyên án 15 năm khổ sai và
bị đầy đi Côn Ðảo. Còn Lương Văn Can
bị 15 năm phát vãng (banissement) và bị 10 năm
biệt
xứ, bị an trí tại Nam Vang. Nguyễn Quyền bị
đi đầy 2 năm ở Côn Ðảo, rồi bị
đưa về an trí ở Bến Tre...
Phong trào Duy
Tân ở Trung Kỳ cũng bị khủng bố dữ
dội: Trần Quý Cáp, Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu
Khiết
bị kết án tử hình. Huỳnh Thúc Kháng, Phạm
Văn Ngôn, Ngô Ðức Kế, Nguyễn Ðình
Kiên, Lê Văn
Huân, Trần Cao Vân, Phan Thúc Duyên, Nguyễn
Ðình Quảng,
Trần Kỳ Phong đều bị bắt và bị
đày đi Côn Ðảo. Phan Chu Trinh cũng đồng chung
số phận với các đồng chí của mình!
Ngày 29-2-1908,
Khâm Sứ Trung Kỳ Levecque đã điện cho Khâm Sứ
Bắc Kỳ Morel cho hay rằng: "Cơ Mật
Viện khẳng định kẻ chủ mưu phiến
loạn là Phan Chu Trinh đang sống tại Hà Nội".
Ngày 31-3-1908, Thống Ðốc Bonhoure, quyền chức Toàn
Quyền Ðông Dương thay cho Paul Beau, ra lệnh cho Khâm
Sứ Morel bắt Phan Chu Trinh ngay tại nơi ông đang
ở (phố Hàng Gai, Hà Nội). Và ngày 2-4-1908,
Thanh Tra
Ganthier đã áp giải Phan Chu Trinh xuống Hải Phòng
và
đưa ông vào Huế bằng đường thủy
(4-11-1908).
Khi mới
giải Phan Chu Trinh về Huế, chúng giam ông tại tòa
Khâm
Sứ. Phan Chu Trinh đã tuyệt thực 7 ngày để
phản đối. Ðể tránh trách nhiệm, tên Khâm
Sứ
Levecque mới chuyển giao ông cho Cơ Mật Viện,
để giam ông này tại nhà lao Hộ Thành trong
Hà Nội.
Tại đây, ông bị đối xử như một
tử tù, chân bị xiềng, tay bị trói và cổ bị
mang gông.
Ngày 10-4-1908,
Khâm Sứ Levecque giao cho Cơ Mật Viện họp
luận tội Phan Chu Trinh, nhưng hắn không tham dự
để tránh dư luận phản đối! Rõ ràng,
Cơ Mật Viện của triều Huế chỉ là
một tổ chức tay sai của Pháp! Cơ Mật
Viện đã chiếu điều 224 Luật Gia Long,
buộc tội và kết án Phan Chu Trinh như sau: "Thủ
phạm âm mưu phản nghịch nhưng chưa thực
hiện: xử giảo (thắt cổ) án treo, sẽ
đày đi Lao Bảo, cấm cố chung thân, không
được ân xá."
Nhưng tên
Khâm Sứ Levecque không chịu duyệt y bản án của
Cơ Mật Viện. Hắn triệu tập một phiên
họp để xét lại bản án (11-4-1908). Hắn yêu
cầu phải áp dụng điều 223 của Luật Gia
Long về tội "phản loạn". Hắn tuyên
bố: "Phan Chu Trinh đã phạm hai tội: Phản
quốc vì kêu gọi Nhật Bản giúp (?). Và
làm loạn vì
khích động dân chúng chống lại quyền lực
của nhà vua và nhà nước bảo hộ". Cho nên
Cơ Mật Viện đành phải làm lại bản án,
kết tội Phan Chu Trinh như sau: "Kết án Phan Chu
Trinh là một trong những chủ phạm vào tội
tử hình, nên bị tuyên án trảm quyết!"
Ðược
tin "tuyên án trảm quyết" Phan Chu Trinh, một
người bạn Pháp của ông là Ernest Babut - chủ
bút
tờ "Ðăng Cổ Thời Báo" ở Hà Nội, và
là hội viên của Hội Nhân Quyền (Ligne des Droit de
l'Homme) đã ra mặt can thiệp, yêu cầu toàn quyền
Ðông Dương buộc Khâm Sứ Huế xét lại bản
án. Kết quả, do sự tranh đấu tích cực
của Ernest Babut và Hội Nhân Quyền, cuối cùng bản
án được sửa lại là: "Côn Lôn ngộ
xá
bất nguyên", nghĩa là đưa đi đày
ở Côn Ðảo, dù có đại xá Phan Chu Trinh
vẫn không
được tha!
Ngày 17-4-1908,
Phan Chu Trinh bị giải về Sàigòn để đưa
ra Côn Ðảo vào ngày 24-4-1908. Khi bọn
lính Pháp dẫn ông
rời nhà lao trong Thành Nội (Huế), đi ngang qua
cửa thành Thượng Tứ, Phan Chu Trinh đã cảm
khái làm bài thơ "Xuất Ðô Môn" như
sau:
"Mang
xiềng nhẹ bước khỏi đô môn,
Hăng
hái hò reo lưỡi vẫn còn,
Ðất
nước hãm chìm, dân tộc héo,
Làm
trai đâu xá thứ Côn Lôn." (10)
Phan Chu Trinh
bị lưu đầy tại Côn Ðảo, tuy là án chung
thân
không được ân xá, nhưng ông không
chán nản vẫn
nuôi dưỡng chí đấu tranh cho công cuộc giải
phóng dân tộc. Tinh thần quả cảm ấy đã
được thể hiện trong bài thơ "Ði Ðập
Ðá" của ông. Thơ rằng:
"Làm
trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng
lãy làm cho lở núi non.
Xách
búa đánh tan năm bẩy đống,
Ra
tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng
ngày bao quản thân sành sõi,
Mưa
nắng chi sờn dạ sắt son.
Những
kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian
nan nào sá sự con con."
Trong thời
gian Phan Chu Trinh bị lưu đầy ở Côn Ðảo
(1908-1910), ở bên ngoài người bạn Pháp Ernest
Babut
tiếp tục vận động Hội Nhân Quyền Pháp
đấu tranh đòi thả Phan Chu Trinh, cho nên vụ án
Phan Chu Trinh đã được đua ra quốc hội
Pháp. Ông Pressené - Chủ Tịch Hội Nhân Quyền
- đã
chất vấn ông Trouillet - Bộ Trưởng Thuộc
Ðịa, về việc bắt giữ và lưu đày Phan Chu
Trinh đi Côn Ðảo. Trouillet đổ cho triều đình
Huế vì "căm thù Phan Chu Trinh" nên mới hành
động như vậy! Về phía chính phủ bảo
hộ - Trouillet chỉ thừa nhận - là "thiếu
sáng suốt không kịp thời can thiệp"... Nhờ
vậy, Thủ Tướng Pháp Raymond Poincaré mới ra lệnh
tái thẩm bản án của Phan Chu Trinh (1910). Toàn
Quyền
Ðông Dương Klobulowsky thi hành lệnh của
Poincaré
lập Hội Ðồng Tái Thẩm bản án Phan Chu Trinh, do
Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là Cousineau làm
chánh
thẩm. Và trước khi quyết định thả Phan
Chu Trinh, Klobulowsky đã cử một viên Thống Ðốc
(?) ra tận Côn Ðảo để thẩm vấn Phan Chu
Trinh lần chót.
Theo lời
kể của Huỳnh Thúc Kháng, cùng ở tù với Phan
Chu
Trinh thì việc thẩm vấn diễn tiến như sau:
"Thống
đốc hỏi:
- Ông có
tư tưởng phản đối nước Pháp hay
không?
Phan Chu
Trinh trả lời:
- Bản
lai tôi không có tư tưởng đó. Tôi phản
đối là phản đối cái chính sách ngược
đãi người Việt Nam chúng tôi, chứ không phản
đối nước Pháp.
- Có
biết Phan Bội Châu không?
- Chính anh
em bạn tôi.
- Vậy
thì ông cũng là đảng bài Pháp chứ
gì?
- Phan
Bội Châu hiệu là Sào Nam, là một tay
hào kiệt ái
quốc của nước Nam, trong nước không ai không
biết tiếng. Nhưng tôi với Sào Quân ý kiến
không
đồng mà lại trái nhau hẳn.
- Trái nhau
thế nào?
- Phan Quân
nhận hẳn rằng người Pháp không thật lòng
khai hóa cho người Nam, nên trước phải tìm
cách
đánh đổ chính phủ Pháp, mà muốn đánh
đổ chính phủ Pháp, không nhờ cậy một
thế lực nước ngoài
thì không làm gì được...
Tôi bác thuyết trên của Sào Quân, lấy
lẽ rằng vì
nước Việt Nam chui núp dưới chính thể chuyên
chế trên nghìn năm, chưa có tư cách quốc
dân
độc lập, dù có nhờ cậy sức nước
ngoài thì chỉ diễn cái trò "dịch chủ
tái
nô"... Còn theo chính kiến tôi, cậy sức nước
ngoài thì có quanh co khúc chiết,
mình không tự lập, ai
cũng là kẻ cừu của mình. Triều Tiên, Ðài
Loan cái
gương rõ ràng. Người Nhật chắc gì hơn
người Pháp?
- Vậy
ông sang Nhật làm gì?
- ... Tôi
sang Nhật để thuật rõ tình hình trong nước
cho Sào Quân nghe. Khuyên Sào Quân chăm
lo đào tạo thiếu
niên du học, gác tư tưởng hành vi bạo
động lại, đợi thời hội khác. Tôi
ở Nhật cũng cùng Sào Quân biện cãi nhiều
lần, rốt cuộc Sào Quân không nghe, tôi
bèn từ về.
- Về
nước ông làm những gì?
- Về
nước tôi cùng anh em đồng chí tổ chức
lập những
hội công khai như học hội, thương hội
v.v... Tôi làm một bức thư điều trần
gửi lên quan Toàn Quyền, quan Khâm Sứ và đăng
các
báo Tây, thuật rõ tình trạng trong nước
cùng hiểm
tượng Ðông Dương, bản ý là cốt tỏ bày
mối tâm sự, mở đường khai hóa sau này, không
dè vì thế mà mang tội. Tôi xem xứ Âu
Tây, có khi anh em
một nhà mà chính kiến cũng khác nhau, huống
chi là anh
em bạn.
Viên Thống
đốc gật đầu và nói:
- Ông nói phải. Chính
kiến không
đồng nhau, cái đó vẫn thường. Ông còn
muốn nói gì nữa không?
- ... Tôi ra ngoài hòn
đảo này đã gần hai năm, cách xa trong
đất, tin tức không thông, nhưng có bạn tù mới
ra thuật chuyện nơi biên giới Bắc Việt và
Trung Việt thỉnh thoảng có những hành vi kịch
liệt, nhà nước xử bằng nghiêm hình trọng
phạt, e nhân đó là gây ra mối biên loạn
to, cái đó
rất thất sách, không phải cách xử trí
thích hợp"
(11).
Qua những
câu trả lời của Phan Chu Trinh, chúng ta thấy ông
rất thông minh và khôn khéo, lấy được cảm
tình của viên thống đốc. Vì vậy, trước
khi ra về, hắn hứa rằng: "Tôi sẽ
đạt ý ông lên quan toàn quyền, có lẽ
chúng ta sẽ
gặp nhau ở Sàigòn nay mai". (12)
Tháng 1 năm
1911, Phan Chu Trinh được trả tự do, nhưng
bị đưa về quản chế ở Mỹ Tho! Phan
Chu Trinh cực lực phản đối, và tuyên bố
rằng: "Nếu không cho tôi hoàn toàn tự do
thì hãy
trả về Côn Lôn". Chánh phủ thực dân
Pháp
đành phải nhượng bộ, bãi bỏ lệnh
quản chế cho Phan Chu Trinh.
Ở vài
tháng tại Mỹ tho, quan sát tình thế, Phan Chu
Trinh
thấy ở trong nước không có đất cho ông
tiếp tục chí hướng của mình, nên ông đệ
đơn cho viên toàn quyền xin sang cư trú trên
đất Pháp - mảnh đất tự do có thể
để ông tiếp tục chí hướng đấu
tranh cho dân quyền của dân tộc Việt Nam. Chính
phủ Pháp chấp thuận ngay vì đã nhổ được
cái gai cho chính phủ bảo hộ và Nam Triều!
Thế là,
tháng 4-1911, Phan Chu Trinh và người con trai 14 tuổi -
Phan
Châu Dật (13), theo viên Toàn Quyền Klobukowsky
lên
đường sang Pháp.
Trước
khi xa tổ quốc, Phan Chu Trinh có làm một bài thơ
gửi quốc dân, đồng bào, bày tỏ ý lòng
của
ông. Thơ rằng:
"Làm
trai trót gánh gánh gian nan,
Dám
lại xa xôi bỏ giữa đàng.
Coi
ra chỉ có ba tấc lưỡi,
Trải
qua đã nát mấy buồng gan.
Tếch
Dương Ấn Ðộ như thiên hạ,
Lên
tháp Ba Lê nhất thế gian.
Mượn
bút Tương Như đề mấy chữ,
Thân
này đành phó với giang san."
Khi mới
đến Pháp, Phan Chu Trinh ở tại Paris và
được chính phủ Pháp trợ cấp 450 Francs
mỗi tháng để sinh sống - một số tiền
quá ít so với mức sinh hoạt ở Paris cho hai cha con. Do
đó, Phan Chu Trinh phải làm thêm nghề rửa ảnh
để có thêm tiền cho người con đi học
(14).
Dù phải
vật lộn với cuộc sống khó khăn ở
thủ đô ánh sáng của Pháp, nhưng Phan Chu
Trinh vẫn
một lòng vì sự nghiệp đấu tranh cho dân
quyền của dân tộc Việt Nam bằng con
đường ngôn luận. Trong mấy tháng cuối
năm 1911, Phan Chu Trinh đã hoàn thành hai
công trình: "Trung
Kỳ Dân Biến Thĩ Mạt Ký" và "Ðông
Dương Chính Trị Luận."
Cuốn sách
"Trung Kỳ Dân Biến Thĩ Mạt Ký" viết
bằng chữ Hán, Phan Chu Trinh tự dịch ra chữ Nôm,
với nội dung miêu tả nỗi khổ đau cùng cực
của nhân dân Trung Kỳ dưới sự đè nặng
của thuế má do chính phủ bảo hộ đặt
ra, nghẹt thở đến phải nổi dậy
đòi giảm thuế để sinh tồn; nhưng
họ đã bị chính quyền bảo hộ đàn áp
tàn
bạo... Cuốn sách này đã được Thiếu Tá
Rules Roux dịch ra Pháp ngữ đưa cho Albert Sarraut xem,
khi ông ta sắp nhận chức Toàn Quyền Ðông
Dương.
Còn tác
phẩm "Ðông Dương Chính Trị Luận" thì Phan
Chu Trinh trình bầy tình trạng chính trị áp
bức
khắc nghiệt tại Ðông Dương và lên án tội
ác
của chủ nghĩa thực dân Pháp, điển hình
như "Sự tàn bạo của các nhà kinh doanh Pháp
ở
Ðông Dương", rằng: "Bất kỳ
người Pháp nào có quan chức ở Ðông Dương
hễ gặp bất cứ việc nào họ cũng sách
nhiễu dân chúng, việc tệ hại nào không
làm... Còn có một
số người Pháp ở Ðông Dương chuyên kinh doanh
các nghề nông, công, thương nghiệp cũng ỷ
thế hoành hành với dân quê."
Ðầu
năm 1912, Phan Chu Trinh và con được Luật Sư
Phan Văn Trường mời về ở chung tại ngôi
nhà do ông thuê, số 6 Villa des Gobelins ở quận 13,
Paris.
Trước
năm 1912, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường chưa
hề quen nhau. Phan Văn Trường đã nghe danh của
Phan Chu Trinh từ năm 1908, trước ngày ông sang
Pháp.
Nhưng Phan Chu Trinh thì mới nghe danh Phan Văn
Trường khi ông đến sống ở Paris (1911). Tuy
vậy, hai nhà yêu nước họ Phan khi mới gặp
nhau nơi xứ người, họ đã cảm thấy
thân nhau ngay. Do đó, khi Phan Văn Trường ngỏ
lời mời về sống chung thì Phan Chu Trinh nhận
lời ngay, và cũng là cơ hội bắt đầu
sự hợp tác của hai nhà chí sĩ họ Phan trong
việc chung lo đại nghiệp của dân tộc (15).
Hai ông đã đồng tâm nhất trí khai sinh một tổ
chức yêu nước của người Việt ở
Pháp, công khai mang tên là Hội Ðồng
Bào Thân Ái (HÐBTA). Và
"căn nhà ở phố Gobelins đã trở thành nơi
gặp gỡ Việt kiều" ở Pháp bao gồm
mọi thành phần xã hội. Luật Sư Phan Văn
Trường "là người có học thức nhất
trong bọn" nên được cử làm "Hội
Trưởng Hội Ðồng Bào Thân Ái". Ðây
là một
tổ chức có "xu hướng dân tộc chủ
nghĩa rõ rệt" (16). Phải nói rằng: Từ
năm 1912, số phận chính trị của Phan Chu Trinh
đã gắn chặt với HÐBTA, với Luật Sư Phan
Văn Trường, và sau này là nhóm Ngũ Long (5
con rồng
Việt Nam tại Pháp) (17).
Phan Chu Trinh
đã tích cực hoạt động cho HÐBTA, ông đã
trực tiếp tuyên truyền vận động thành
phần học sinh, sinh viên Việt Nam tại Paris gia
nhập Hội và hoạt động cho Hội.
Năm 1913,
sau vụ nổ bom ở Hà Nội của các chiến
sĩ Việt Nam Quang Phục Hội (26-4-1913), mật thám
Pháp tại Paris đặc biệt quan tâm đến
hoạt động của HÐBTA, vì chúng nghi rằng HÐBTA
có
liên hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước
ở Việt Nam. Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường là
hai đối tượng chính trị nguy hiểm của
bọn mật thám Pháp ở Paris. Do đó, khi Phan Chu
Trinh
nhận được thư của Cường Ðể,
do Trương Duy Toản (18) mang từ Luân Ðôn sang,
thì Phan
Chu Trinh ngờ là cái bẫy của mật thám Pháp,
nên ông
"núm lấy Trương Duy Toản đưa
đến thuộc địa của Pháp, có ý báo cho
người Pháp: quỷ kế của các người, lão
biết rồi đó" (19).
Ngày 3-8-1914,
chiến tranh Pháp-Ðức bùng nổ, thì ngày
28-8-1914, Bộ
Trưởng Bộ Thuộc Ðịa liền trình công văn
lên Bộ Trưởng Chiến Tranh (Pháp) đề
nghị có biện pháp ngăn ngừa bạo loạn
của Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh, vì hai nhân
vật này đã "có những hành vi
đáng ngờ
(agissements suspects) rằng họ đã khích động sinh
viên Việt Nam hận thù chính phủ Pháp,
đã tập
họp những người này lại trong một hội
đoàn để gây mầm phản loạn" (20). Và
theo lời kể của Phan Văn Trường: "Tháng
9-1914, chính phủ (Pháp) lợi dụng tình trạng
chiến tranh để buộc tội ông (Phan Chu Trinh) cùng
với tôi có âm mưu chính trị chống lại
nước Pháp và giam chúng tôi vào ngục
tối trong 11
tháng" (21).
Phan Chu Trinh
bị bắt vào ngày 14-9-1914 (sau Phan Văn Trường hai
ngày) và bị giam tại nhà lao dân sự La
Santé. Trong
thời gian ở tù, Phan Chu Trinh vẫn không nhụt chí
đấu tranh và vẫn ung dung sống như lời
thơ do ông sáng tác sau đây:
"Từ
ấy giam luôn mấy tháng tròn
Nhờ
trời ngủ kỹ lại ăn ngon
Ngày
ba lần xực coi còn đói
Ðêm
chín giờ ngơi ngáy vẫn dòn
Mỗi
bữa nửa giờ ra hóng mát
Một
tuần hai bận xuống thăm con
Vui
buồn mình biết lòng mình vậy
Miễn
trả cho rồi nợ nước non" (22)
Phan Chu Trinh
cũng đã phản đối quyết liệt
đối với viên chánh án kết tội ông. Một
lần, tại văn phòng viên chánh án, Phan Chu
Trinh đã nói
thẳng với hắn rằng: "Quan án là một tên
gian dối, thay mặt cho quân thù nghịch của tôi,
lấy ý riêng mà bắt tôi, giam tôi. Từ
nay, tôi cứ
đem lời lẽ công bằng mà chống cự lại
với những việc làm gian dối, không công bằng
của quan lớn." Phan Chu Trinh cũng đã hiên ngang
tuyên bố trước mặt tên chánh án rằng: "Tôi
thề chết giữa bàn giấy quan lớn. Tôi thề
lấy máu tôi mà bôi đầy đầu, đầy
mặt, đầy cổ, đầy mình quan lớn, tôi bôi
cho đỏ cả buồng giấy gian dối. Tôi
chẳng chịu chết mòn, chết rục, chết
vằm, chết thảm ở cái buồng giam 26 này
đâu." (23).
Trong
những ngày tháng bị tù giam ở La Santé
(Paris)
điều lo lắng nhất của Phan Chu Trinh là bệnh
tình của người con trai Phan Chu Dật! Năm Phan Chu
Trinh bị bắt giam, cũng là năm Phan Chu Dật
đậu bằng Tú Tài Vật Lý học. Nhưng vì
quá lo
cho cha nên Dật đã phát nệnh. Nghe tin con bệnh
nặng, Phan Chu Trinh quyết định nhờ ông M. Moutet
lo liệu đưa con về trong nước để
dưỡng bệnh và điều trị. Khi chia tay con
trai, Phan Chu Trinh đã nói lên một lời tâm
huyết mà ông
không ngờ đó là lời vĩnh biệt cuối cùng
của ông đối với Phan Chu Dật (24). Ông nói: "Này
con, cha xa nhà bỏ nước ra đi để tìm một
miếng đất tự do, bình đẳng, bác ái,
đặng sống. Sống không phải là ký sinh trùng
của thế gian, sống để mưu đồ
một công cuộc hữu ích gì cho đồng bào, tổ
quốc. Thế nhưng hôm nay cha cảm thấy
nước Pháp văn minh chưa phải gồm toàn
những người có tâm hồn cao thượng ấy
hết. Cha đã bị bao cảnh khốn khổ trong lao
tù. Việc ấy cha nào kể, việc cha lo là lo cho
đồng bào kia. Bây giờ con phải về nước.
Chẳng khéo lại hệ lụy đến con nữa. Với
sức học của con, cha tin tưởng ở con
sẽ sáng suốt phụng sự đồng bào."
(25).
Giữa
năm 1915, tại tòa án binh Paris, Marlus Moutet (đảng
viên
Xã Hội Pháp, hội viên Hội Nhân Quyền, nghị
sĩ quốc hội vùng Rhône) (26) cùng với cựu
Thiếu Tá Jules Roux, đã bênh vực cho Phan Chu
Trinh, bác bỏ
lời kết tội của viên chánh án. Nhờ đó,
mà
tháng 7-1915 (Ất Mão) chính phủ Poincaré
phải ký lệnh
trả tự do cho Phan Chu Trinh. Nhưng bọn thực dân
Pháp lại thực hiện chính sách triệt nguồn
sống của ông "bằng cách hủy bỏ trợ
cấp hàng tháng 450 frs, có lẽ với hy vọng rằng
ông không biết tiếng Pháp, lại không
rành một
nghề nào có thể kiếm sống ở Pháp, ông sẽ
buộc phải xin về nước để khỏi
chết đói trên nước Pháp..." (27).
Bọn
thực dân Pháp đã lầm! Với thủ đoạn
đê hèn ấy, chúng không thể nào
làm nhụt chí của
một chí sĩ như Phan Tây Hồ. Ông vẫn ở
lại đất Pháp và vừa lao động sinh sống
vừa tiếp tục hoạt động đấu tranh
cho dân quyền của dân tộc Việt Nam.
o0o
Sau khi ra
khỏi nhà tù La Santé, Phan Chu Trinh vẫn
kiên tâm ở lại
nước Pháp để tiếp tục con
đường cách mạng dân quyền mà theo chủ
kiến của ông là đúng (?). Ðã bị thực
dân Pháp
cắt đứt nguồn sống bằng tiền trợ
cấp xã hội, ông quyết tâm học nghề sửa
ảnh và phóng đại ảnh để sinh sống (28).
Theo báo cáo của viên mật thám Jean
(8-1-1920) thì "Ông
Trinh làm nghề sửa ảnh, mỗi ngày kiếm
được độ 30 Francs". Tuy không có thời
giờ nhà rỗi để hoạt động yêu
nước như trước khi ở tù, nhưng
đời sống Phan Chu Trinh đã khá hơn lúc ăn
tiền trợ cấp rất nhiều, và ông còn trợ giúp
một phần chi phí cho Luật Sư Phan Văn
Trường (19).
Từ tháng
8-1915 đến khi chiến tranh Thế Giới Lần
Thứ Nhất chấm dứt (cuối năm 1918), Phan Chu
Trinh vẫn sống tại căn nhà do Phan Văn
Trường mướn (số 6, Villa des Goblins, quận
13, Paris) với vai trò chủ chính; còn Phan Văn
Trường thì thỉnh thoảng mới về thăm,
cùng Phan Chu Trinh bàn bạc việc phát động phong
trào
yêu nước của Việt kiều ở Pháp ủng hộ
công cuộc đấu tranh chống chính quyền thực
dân Pháp ở trong nước. Trong một báo cáo
tổng
hợp của Paul Arnous - Giám Ðốc Sở Tình Báo
Chính
Trị Ðặc Biệt - đã cho biết: "Phan Văn
Trường và Phan Chu Trinh đã bị tố cáo về
vụ âm mưu chống an ninh quốc gia." Sở
dĩ bọn mật thám Pháp tại Paris đã tố cáo
như vậy, là vì hai chí sĩ họ Phan đã chỉ
đạo thành lập một tổ chức mới:
Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước (30)
(thay cho Hội Ðồng Bào Thân Ái đã tan
rã từ 1916).
Thời gian
từ 1919 đến 1922, Phan Chu Trinh được xem là
nhân vật lãnh đạo trụ cột của Hội
Những Người Việt Nam Yêu Nước; bởi vì
Phan Văn Trường đã sang làm việc tại
nước Ðức vào cuối năm 1919, với tư cách
là "Trạng Sư trước Hội Ðồng Quân
Sự Mayence", thỉnh thoảng ông mới về Paris.
Nhưng vì Phan Chu Trinh (và Phan Văn Trường) đang
bị bọn mật thám Pháp theo dõi quá chặt chẽ
nên
ông không tiện công khai đứng ra lãnh đạo
Hội. Do đó, hai ông đã thống nhất giao cho
Nguyễn Tất Thành (lấy tên Nguyễn Ái Quốc)
đảm trách công việc điều hành công khai.
Việc làm
có ảnh hưởng vang dội đầu tiên của
Hội là đưa bản "Yêu sách của nhân dân
Việt Nam" tới Nghị Viện Pháp và đại
biểu của các nước dự hội nghị
Versailles vào ngày 18-6-1919. Chính Phan Chu
Trinh là người
đề xuất việc đưa bản yêu sách
đến hội nghị Versailles và được ông
được cả nhóm Ngũ Long giao cho soạn thảo
bản yêu sách bằng chữ Hán với tựa đề
là: "Việt Nam Nhân Dân Thỉnh Nguyện Thư".
Căn cứ vào bản văn chữ Hán, Phan Văn
Trường viết lại (có sửa chữa) bằng
chữ Pháp với tựa đề là: "Renvendications du
Peuple Ananamite" để gửi đi và phổ biến
rộng rãi trên báo chí (31).
Năm 1922,
nhân dịp vua Khải Ðịnh sang Pháp để dự
cuộc đấu xảo quốc tế, từ Marseille,
Phan Chu Trinh đã viết bức thư gửi cho Khải
Ðịnh. Bức thư với đầu đề
"Thất Ðiều Thư" và đề ngày 15-7-1922.
Nội dung
căn bản của bức thư, như Phan Chu Trinh
đã viết cảnh cáo vua Khải Ðịnh rằng: "Nói
ra không xiết, song bây giờ hãy đem 7 tội mà
Bệ
Hạ đã phạm với quốc dân, kể cho rõ ràng, khi
Bệ Hạ nhận bức thư này, hãy nên tỉnh
ngộ lại mà tự xử lấy mình" (32).
Cuối cùng Phan Chu Trinh nêu
yêu
sách rằng: "Bệ Hạ còn một chút thiên
lương mà biết hối ngộ ra, tin rằng quân
quyền không có thể cậy được, dân quyền
không có thể đoạt được, đem chính
quyền trao trả cho quốc dân, để quốc dân
được trực tiếp ngay với chính phủ Pháp
mà làm công việc, để mưu sự ích lợi sau
này,
vậy thì may ra quốc dân còn thương cái
lòng mà tha cái
tội ấy đi, ấy là cái kế sách của Bệ
Hạ ngày nay, không còn gì hơn nữa."
(33). Phan Chu
Trinh cũng tuyên bố rằng: Nếu Khải Ðịnh
không chấp nhận yêu sách đó "thì
Trinh này sẽ
bố cáo với quốc dân và thương thuyết
với chánh phủ Pháp, lĩnh mạng hai mươi
lăm triệu đồng bào Việt Nam cùng với Bệ
Hạ tuyên chiến một trận kịch liệt."
(34).
Ðã sống
trên đất Pháp, tại thủ đô "ánh sáng
dân
chủ" (Paris) hơn 10 năm (1911-1922) và đã một
lần bị tù oan (1914-1915) mà Phan Chu Trinh vẫn chưa
nhận thấy hết bản chất của chủ
nghĩa thực dân Pháp trong việc chiếm lấy
Việt Nam làm thuộc địa, nên ông vẫn còn
nuôi
mộng "thương thuyết với chính phủ
Pháp"?
Luật
Sư Phan Văn Trường cũng không đồng ý thái
độ "đề huề" với chủ
nghĩa thực dân Pháp của Phan Chu Trinh, nhất là từ
khi Phan Chu Trinh ra tù (1919). Trong chương "Nhà Nho
Phan Chu
Trinh và nỗi thống khổ của ông" (35), Phan
Văn Trường đã phản ảnh như sau:
"Ông
Phan Chu Trinh là một người bền chí! Tuy phải
sống trong cảnh khốn khổ và tủi nhục, ông
vẫn nuôi hy vọng một ngày kia sẽ tranh thủ
được ân huệ của chính phủ thực dân. Ông
tiếp tục lui tới Bộ Thuộc Ðịa, tìm cách
tiếp cận các viên chức cao cấp phụ trách
Ðông
Dương để bầy tỏ lòng thành của mình."
"Người
ta nghĩ rằng sau những bài học đau đớn
ấy (bị chính phủ Pháp bắt bỏ tù oan, bị
bọn thực dân Pháp cắt trợ cấp xã hội...?)
ông Phan Chu Trinh sẽ chữa được bệnh
lạc quan, rằng lần này sẽ dứt khoát từ
bỏ hy vọng lại được chính phủ
thực dân thi ân bố đức. Thế nhưng không
phải vậy! Ông ứng xử như chẳng có việc
gì xẩy ra: Ông nối lại quan hệ với Bộ
Thuộc Ðịa, lại tìm cách tiếp cận với
những kẻ đã ngược đãi ông, nhiều
lần xin yết kiến ông Albert Sarraut." (36).
Trong sự
nghiệp chính trị của Phan Chu Trinh với quan
điểm "Pháp-Việt đề huề" và kiên trì
quan điểm này đến cùng, là sự thất bại
lớn nhất của ông!
Thất
bại trước hết là làm mất dần bạn bè và
đồng chí trên đường đấu tranh giải
phóng dân tộc. Tuy nhiên họ vẫn kính trọng
nhiệt
huyết cứu nước, cứu dân của ông; nhưng
họ không thể tán thành đường lối kiên
trì
"Pháp-Việt đề huề" của ông. Phan
Văn Trường đã phán xét như sau: "Phan Chu
Trinh đã để 20 năm trời đề đạt
lên chính quyền thuộc địa về thuyết
thỏa hiệp này. Ông đã là người vận
động không hề biết mệt mỏi cho chính sách
Pháp-Việt đề huề. Nhưng ông đã gặt hái
được gì đã gieo rắc giữa người Pháp
và người Nam?" (37). Sau này, giáo sư
Hoàng Xuân Hãn
cũng nhận xét rằng: "Sự thất bại
của ông đã làm cho người ngày nay, khi đọc
lại thư (gửi Toàn Quyền Beau) chỉ có cảm
tưởng ông ngây thơ về chính trị và cảm
thấy tức tối khi ông mạt sát quá đáng
đồng bào mình và tâng bốc vượt mức
đối với thực dân Pháp... (38).
Thất
bại thứ hai của Phan Chu Trinh là ông vô tình
đã
tạo kẽ hở cho thực dân Pháp lợi dụng
để đánh phá phong trào cách mạng triệt
để của các lực lượng yêu nước
Việt Nam! trong báo cáo đề ngày 22-12-1921 gửi Bộ
trưởng Thuộc Ðịa của P. Guesde, có đoạn
viết về Phan Chu Trinh như sau: "Tối qua, tôi có
cuộc nói chuyện với Phan Chu Trinh... tôi thấy ông
ta
không phải là loại làm cho chánh quyền của
ta lo
ngại. Phan Chu Trinh là một người dân tộc
chủ nghĩa. Ông ta nuôi hy vọng trông thấy đất
nước của ông ta một ngày kia được
độc lập, nhưng cũng tin ở sự cần
thiết phải duy trì nền bảo hộ của chúng ta
ở Annam." và "Tin chắc rằng chính sách
tốt nhất lúc này là thỏa mãn yêu cầu
của Phan Chu
Trinh, tôi hân hạnh đề nghị Ngài cho phép
ông ta
trở về nước và chỉ thị cho ngân sách Ðông
Dương phải đãi thọ việc hồi
hương này..." (39).
Vì vậy, có
một số người đã nghi vấn việc Phan Chu
Trinh trở về nước (28-5-1925) là có quan hệ
đến chính sách lợi dụng đường lối
"Pháp-Việt đề huề" của Phan Chu Trinh?
Ðây có thể xem là một nghi án lịch sử
đối
với nhà yêu nước Phan Chu Trinh!
nh
III
. Những Năm Cuối Ðời
Theo lời yêu cầu
ráo riết của Phan Chu Trinh, với sự đề
nghị tận tình của P. Guesde (một viên chức cao
cấp của Bộ Thuộc Ðịa), nên Phan Chu Trinh đã
được Bộ Thuộc Ðịa cho phép hồi
hương.
Có một nghi vấn
của nhiều đồng chí của Phan Chu Trinh là:
Trước khi về nước do sự thúc đẩy
của ai mà Phan Chu Trinh đã hợp tác với Trần Văn
Khá để thành lập "Hội liên Hiệp
Pháp-Ðông
Dương" (Union Franco-Indochinoise) do Phan Chu Trinh làm
Hội trưởng và Trần văn Kha làm Tổng thư
ký (40)
Nhưng có một điều là bạn
bè và các đồng chí của ông
không đồng ý với
quan điểm "Pháp-Việt đề huề"
của ông điều khẳng định là Phan Chu Trinh
đã không thể rút chân ra khỏi cái vũng
lầy
"Liên Hiệp Pháp-Ðông Dương"! Bởi vì,
chính Phan
Chu Trinh đã tự nhận rằng: ông là "một
người đã day dứt suy tưởng làm thế nào
để tạo mối liên hệ hoàn toàn giữa Pháp
và
Ðông Dương trong thời gian sắp tới" (41). Phan
Chu Trinh còn nuôi ảo vọng rằng: "Ðể sống
và mở mang một vùng ở Châu Á, chúng
tôi cần sự
trợ lực của nước Pháp, về vật
chất, mà chỉ có nước Pháp là có thể
làm
được" (42). Hơn thế nữa, Phan Chu
Trinh còn tự tin đến mức chủ quan rằng: "Nếu
nước Pháp ở bên cạnh chúng tôi thì
đó là
điềm có lợi, vì làm tăng uy tín của
Pháp ở
vùng Cận Ðông, như vậy cần sự hợp tác
của tôi" (43).
Chính lòng tự tin,
chủ quan nầy, đã khiến một số chí sĩ
yêu nước đầy nhiệt huyết đã dấn
thân vào con đường cải lương chủ nghĩa
cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng.
Phan Chu Trinh rời
nước Pháp vào hạ tuần tháng 6-1925. Ông
đã cùng
đi về nước chung một chuyến tàu với
Nguyễn An Ninh (44). Tuy không cùng quan điểm đấu
tranh chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn An Ninh
(cũng như Phan Văn Trường) rất coi trọng
tình đồng chí (của nhóm Ngũ Long) đối
với Phan Chu Trinh. Do đó, việc Nguyễn An Ninh cùng
về nước với Phan Chu Trinh không phải là
ngẫu nhiên, mà là do sự thảo luận trước giữa
Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, nhằm mục
đích giúp đỡ Phan Chu Trinh có nơi ăn chốn
ở và tạo điều kiện trị bệnh cho ông.
Bài học Thân Tình nầy - "Không bao giờ quay
lưng
với bạn bè trong lúc khó khăn" cho dù quan
điểm chính trị khác nhau, thậm chí đối nghịch
nhau giữa Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh
đối với Phan Chu Trinh là một bài học lịch
sử có giá trị về đạo đức và tình
người, là một truyền thống đoàn kết
của dân tộc ta!
Ngày 26-6-1925, Phan Chu
Trinh và Nguyễn An Ninh đã về tới Sài Gòn.
Nguyễn
An Ninh đưa Phan Chu Trinh về thẳng khách sạn Chiêu
Nam Lầu (45). Nghỉ tại Chiêu Nam Lầu cho đến
ngày 29-6-1925, thì Phan Chu trinh đã được Nguyễn
An
Ninh đưa về nhà cha của ông, là cụ Nguyễn An
Khương, ở Mỹ Hoà để tiện việc
tiếp đón bạn bè đến thăm hỏi và trao
đổi công việc; đồng thời cũng
để tiện cho cụ Nguyễn An Cư (Chú ruột
của Nguyễn An Ninh, một lương y nổi
tiếng ở Nam Kỳ) chăm sóc sức khoẻ cho Phan
Chu Trinh (đang thời kỳ suy yếu nhất).
Thời gian ở
Chiêu Nam Lầu và tại nhà cụ Nguyễn An Khương,
Phan Chu Trinh đã tiếp xúc với các nhân vật
như:
Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Kim Ðính, Khánh
Ký, Lâm Hiệp Châu,
De Jean de la Bâtre, Paul Monin, Malraux... Trong các cuộc
tiếp xúc
nầy, ông Phan Chu Trinh đã bày tỏ tâm
tình như sau: "Một
khi đã trở lại sống trên quê hương xứ
sở, tôi nguyện đem hết nghị lực bình sinh mà
thức tỉnh dân khí ba miền đồng tâm, hiệp lực
đạp đổ cường quyền áp chế".
Chính vì tâm quyết
phụng sự cho dân quyền, nên dù sức khỏe còn
yếu, Phan Chu Trinh cũng đã cùng Nguyễn An Ninh
(với vợ chồng người con gái của ông là ông
bà Lê Ấm) đi xuống các tỉnh Trà Vinh, Mỹ
Tho...
để vận động tài chánh cho việc tái bản
tờ "La Cloche Fêlée". Nhờ vậy, mà ngày
26-11-1925,
báo "La Cloche Fêlée" số 20 được tái bản
đợt II.
Phan Chu Trinh đã trao đổi với
Nguyễn An Ninh việc mở một trường trung
học lớn (Lycée) ở Sài Gòn để đào tạo
nhân tài (theo chương trình cải cách). Dự
án nầy
đã được các nhà tư sản, nhân sĩ yêu
nước hết lòng ủng hộ ... Tiếc thay! Dự
án nầy không thể thực hiện được vì nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên
nhân là Phan Chu Trinh -
người chủ xướng - ngày càng lâm bịnh
nặng và qua đời sau khi về nước không
được bao lâu (6-1925 - 3-1926).
Tuy được
sự điều trị và chăm sóc chu đáo của
cụ Lương Y Nguyễn An Cư, nhưng căn
bịnh của Phan Chu Trinh vẫn không giảm bớt. Dù thế,
Phan Chu Trinh cũng gắng sức tàn của ông để
vận động thực hiện chủ trương
"Pháp-Việt đề huề". Trong thư
đề ngày 12-11-1925, gửi cho cựu thiếu tá Jules
Roles ở Paris, có đoạn ông đã biểu lộ tâm
tình như sau: "Tôi là người khổ sở, đã
từ bỏ quê hương, từ bỏ vợ
conđến 9 năm trời rồi. Tôi đã chịu
trăm điều xấu hổ, trăm điều
cực khổ, hy vọng của tôi là cốt sao cho hai dân
tộc Pháp-Việt liên hiệp một cách thật tình.
Nếu như tôi chết mà có lợi cho nước tôi
và có
lợi cho nước anh, thì tôi dẫu chết cũng
cười".
Vì vậy, dù sức
khỏe đã kiệt, nhưng Phan Chu Trinh vẫn cố
gắng truyền bá quan điểm cải lương của
ông. Cuối năm 1925 ông đã hai lần đăng đàn
diễn thuyết tại "Hội Quán Thanh Niên" ở
Sài Gòn.
Lần thứ
nhất Phan Chu Trinh diễn thuyết về đề tài
"Ðạo Ðức Và Luân Lý Ðông
Tây".
Ðề tài diễn
thuyết lần thứ hai là "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa".
Hai lần diễn
thuyết nầy của Phan Chu Trinh đã có đến hàng
trăm nhân sĩ, trí thức và học sinh tham dự;
và
cả hai đề tài của ông trình bài nói
chung là được
hoan nghênh. Thính giả hoan nghênh là hoan
nghênh bầu nhiệt
huyết canh tân của ông, hoan nghênh cách
nói duyên dáng, và
nhiệt tình của ông. Nhưng, một số người
có kiến thức và theo đường lối chống
thực dân Pháp kịch liệt thì âm thầm
không tán thành,
tuy họ không phản đối ra mặt vì lẽ tôn
trọng sự hy sinh cả cuộc đời của ông
cho sự nghiệp dân quyền của dân tộc!
Với bài
"Ðạo Ðức Và Luân Lý Ðông
Tây", Phan Chu Trinh mong
muốn cho người nghe có được nhận
thức mới về phạm trù Ðạo Ðức và Luân
Lý: "Ðạo
đức là đạo đức , luân lý là luân
lý. Ðạo
đức bao gồm cả luân lý mà luân lý chỉ
là một
phần trong đạo đức mà thôi". Và "Luân
lý như cái áo tùy người lớn nhỏ mà
thay
đổi, nhưng không mất hình cái áo đi,
chí như
đạo đức là như cơm, như nước,
như bổ dưỡng cần cho mọi người
dầu muốn thay đổi cũng không thay đổi
được, nếu thay đổi được là
đạo đức giả" (47). Theo Phan Chu Trinh,
mục đích của ông khi giải thích hai khái
niệm
Ðạo Ðức và Luân Lý như trên là
"Cốt ý bàn
về sự thay đổi Luân Lý của nước
ta" (48)
Vậy Phan Chu Trinh
đề nghị sửa đổi Luân Lý của
nước ta như thế nào? Tại sao?
Phan Chu Trinh khẳng
định rằng: "Bàn đến quốc gia luân lý
thì tôi xin thưa rằng nước ta tuyệt nhiên
không
có". Bởi vì "quốc gia luân lý của ta
từ xưa đến nay chỉ có trong vòng chật
hẹp của vua và tôi. Không nói đến "Dân
và
Nước" vì dân không được bàn đến
việc nước". (49)
Trong lúc ấy, ở
Châu Âu thì sao? Phan Chu Trinh đã cho biết: "Quốc
gia
luân lý Châu Âu phát đạt từ thời Trung
Cổ",
thì đến bây giờ "cái thời đại quốc
gia đã qua, không thể duy trì được nữa đành
phải bỏ mà tiến lên thời đại xã hội
vậy". "Ấy là bước tiến lên, bỏ
quốc gia luân lý mà bước lên xã hội
luân lý"
(50)
Cho nên Phan Chu Trinh đề nghị
rằng: "cứu chữa lấy cái luân lý cũ
của ta, rồi đem chấp nối với cái luân lý
của Châu Âu" theo phương sách "đem cái
chân
văn minh ở Âu Tây hoà hợp với chân Nho
giáo ở Á
Ðông" (51).
Nếu Phan Chu Trinh đã
đem đến cho người nghe một nhận
thức mới về khái niệm về đạo
đức và luân lý (dù chưa thực hoàn
chỉnh?); và ông
cũng mang đến một nhiệt huyết cách mạng
(bỏ luân lý cũ, xây dựng nền luân lý
mới?)
để "trong đôi ba mươi năm chúng ta
phải bước qua cái nền quốc gia luân lý, rồi
mới mong tiến lên xã hội luân lý được"
(52); thì Phan Chu Trinh cũng đã gây nên một
sự bất
mãn ngầm trong lòng những người trí thức yêu
nước lúc bây giờ (!?)
Bởi lẽ, Phan Chu Trinh đã
đề cao quá mức đối với sự bảo
hộ của thực dân Pháp, như ông đã nói: "Hơn
sáu mươi năm nay ở dưới quyền một
nước bảo hộ rất văn minh, rất tự
do (?) mà cái mầm tự do không nẩy ra được là
bởi từ đâu?" (53). Phan Chu Trinh còn bênh vực
cho việc đàn áp của chính quyền thực dân
đối với dân tộc ta là: "Cái lỗi ấy bởi
ông cha ta để lại... Người ta nhận lấy
đó (cái xiềng chuyên chế) mà cột
mình, chớ nào
phải người ta đặt ra hay là mang ở bên Pháp
qua mà cột mình đâu" (54).
Trong khi đề cao
cái gọi là "văn minh" của chủ nghĩa
thực dân Pháp, Phan Chu Trinh đã không tiếc
lời
mạt sát dân tộc Việt, rằng: "người
mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái
xác thịt, cái
tuổi già, mà vẫn không xong thì cũng
đã xấu
hổ rồi, huống là nói đến xã hội nhân
quần" (55). Phan Chu Trinh còn nói: "Theo
ý tôi
tưởng, chẳng qua dân Việt Nam mình hèn hạ nên
người ta mới đè nén" (56). Không chỉ
thế, Phan Chu Trinh còn lên án những nhà
yêu nước
đã đứng lên vũ trang đánh Pháp, rằng: "Có
một vài người anh hùng không chịu đi xem
xét, mê
tín lịch sử thời xưa, trọng chủ nghĩa
trung quân, chủ nghĩa phục thù, tìm mưu kiếm
kế phỉnh phờ cho dân dấy lên, nhưng than ôi!
Một con dao, một đoạn tre thì có làm gì.
Cái nỗi
thảm hại, đưa đầu ra cho người ta
bắn, đem thịt ra cho người ta bằm nào có ích
gì! Chẳng qua làm cho dân đức của ta trụy
lạc..." (57)
Phan Chu Trinh đã
kết luận rằng: "Thương nước cho
phải đường mới là thương nước,
nếu thương không phải đường thì đã
không giúp được gì mà còn làm
hại sinh linh
nữa" (58). Và ông kêu gọi: "Từ nay dân
Việt Nam ta phải biết thương nước...
không thù nghịch gì với người Pháp" (59).
Phan Chu Trinh đã
chết cách nay hơn 70 năm, nhưng những lời nói
thiếu thận trọng này vẫn còn lưu truyền
trong lịch sử, phần nào làm giảm giai trò của
ông
trong trên bảng vàng lưu danh những bật tiền
bối cách mạng của dân tộc!
- Với bài "Quân Trị
Chủ Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa", Phan Chu
Trinh đã cố gắng dẫn chứng lịch sử
của các nước Á Ðông để giảng giải cái
chính thể quân trị chủ nghĩa, và theo ông
"Quân
Trị Chủ Nghĩa" tức là "Nhân Trị
Chủ Nghĩa" (?) Ðồng thời, ông cũng chứng
minh bằng tiến hoá lịch sử của Âu Tây,
để giảng giải "Dân Trị Chủ
Nghĩa" tức là "Pháp Trị Chủ Nghĩa"
(?).
Phan Chu Trinh đã
kịch liệt phê phán "Quân Trị Chủ Nghĩa"
của các nước Á Ðông, chủ yếu là nước
Tàu. Ông đã kết luận như sau: "Từ Tần
Thủy Hoàng về sau, các nước nói theo Ðạo Nho
đó kỳ thật trong nước không có thi hành một
chút Ðạo Nho nào, chỉ còn xót lại một
hai
điều ở trong gia đình mà thôi. Kỳ dư là
những điều mà mấy ông vua chuyên chế dựa vào
Ðạo Nho để đè nén dân" (60).
Còn ở nước
ta, theo Phan Chu Trinh thì "trong hai nghìn năm
các nhà vua
chẳng ngó chi đến lợi hại dân tộc, chỉ
lo tính toán để đè nén cái
trí dân, để mà giữ
chặt cái chìa khóa tủ sắt ngôi Thiên
Tử cho con cháu
mình" (61). Vì thế, "tôi nghĩ trong hai
mươi triệu ai cũng biết có nhà mà không biết
có nước" (?). "Còn đến việc
"mất nước" thì chẳng ai mơ màng vào
đâu. Một dân tộc mà đối với nước
lơ láo lạt lẽo như thế nó cũng khốn
nạn thật". (62).
Không hiểu vì sao mà
Phan Chu Trinh đã hằn học và mạt sát dân tộc
mình
như vậy (?). Qua cách nhìn
chủ quan của một nhà Nho cấp tiến, bất mãn
tột cùng với triều đình Huế, Phan Chu Trinh
đã quơ đũa cả nắm, xóa bỏ tất
cả những thành tựu của dân tộc trong quá
trình
dựng nước và giữ nước (!)
Ngược lại,
Phan Chu Trinh đã đề cao quá mức nền "Dân
Trị Chủ Nghĩa" của các nước ở Châu
Âu, đặc biệt là nước Pháp. Sau khi trình
bày
"về cái chính thể bên Pháp", Phan Chu Trinh
kết
luận một cách khẳng định rằng: "Trong
nước đã có hiến pháp, ai cũng phải tôn
trọng hiến pháp. Cái chính quyền cũng bởi
hiến pháp qui định cho, lười biếng không
được, mà dẫu muốn áp chế cũng không có
chỗ nào thò ra được. Vả lại khi có
điều gì phạm đến pháp luật, thì
người nào cũng như người nào, từ ông
Tổng Thống cho đến một người nhà quê
cũng đều chịu theo một pháp luật như
sau" (63). Rõ ràng, Phan Chu Trinh đã
"lý tưởng
hóa thực tế" mà quên đi nỗi oan của ông khi
bị chính phủ Pháp vô cớ bắt ông đem giam ở
nhà tù La Santé (!?)
Phan Chu Trinh còn cho
rằng các dân tộc theo "Dân Trị Chủ Nghĩa
là khôn ngoan biết tự cường tự lập, mưu
lấy sự lợi ích chung của mình thì càng
ngày càng
bước tới con đường vui vẻ"; còn
các dân tộc theo "Quân Trị Chủ Nghĩa" là "ngu
dại cứ ngồi yên mà nhờ trời mà mong
đợi trông cậy ở vua, ở quan, giao phó tất
cả những quyền lợi của mình vào trong một
người, hay là một chánh phủ muốn làm sao
thì làm,
mà mình không hành động, không
bàn luận, không kiểm xét
thì dân ấy phải khốn khổ mọi
đường" (63).
Thật ra, không nên áp
đặt cho dân tộc này "khôn ngoan", dân tộc kia
"ngu dại", mà phải xét hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của từng dân tộc: Nguyên nhân nào
đưa các dân tộc Âu-Mỹ tiến nhanh? Nguyên
nhân nào
làm cho các dân tộc Á-Ðông chậm
tiến, lạc hậu?
Sức khoẻ quá
yếu, lại lao tâm nhiều, nên Phan Chu Trinh đã
lâm
trọng bệnh từ sau ngày Tết Bính Dần (1926).
Mọi phương thuốc so cụ lương y
Nguyễn An Cư lo điều trị cho ông cũng không
hiệu quả. Phan Chu Trinh đang thoi thóp trên giường
bệnh lại hay tin Nguyễn An Ninh đã bị bọn
mật thám Pháp bắt tại nhà, vào lúc
11 giờ 30 trưa
ngày 24-3-1926. Không hiểu có phải vì
quá xúc cảm vì
chuyện Nguyễn An Ninh bị bắt hay không (?) mà Phan Chu
Trinh đã trút hơi thở cuối cùng vào
lúc 9 giờ 30
tối hôm đó (24-3-1926)!
Phan
Chu Trinh qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và
được đem quàn tại nhà số 54
đường Pellerin (nay là đường Nguyễn
Thị Minh Khai - tức đường Pasteur trước 30-4-1975).
Một "Ủy Ban tổ chức lễ quốc táng nhà
yêu nước Phan Chu Trinh" đã được hình
thành ngay trong đêm 24-3-1926. Những thành
viên của ủy
ban tổ chức lễ quốc tang nhà yêu nước Phan
Chu Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức yêu
nước đang sống, làm việc và tranh đấu
tại Nam Kỳ. Những thành viên đó là:
1. Kỹ
sư Bùi Quang Chiêu (65),
Chủ tịch Ðảng Lập hiến, Thanh Tra Canh Nông
ở Nam Kỳ;
2. Phan
Văn Trường, Tiến
Sĩ Luật Khoa, Chủ Nhiệm báo "La Cloche Fêlée";
3.
Tiến Sĩ Y Khoa Nguyễn Văn Thinh;
4.
Tiến Sĩ Y Khoa Trần Văn Ðôn;
5. Lê
Quang Liêm, Ðốc Phủ Sứ, Rạch Giá;
6. Nguyễn Phan Long,
Hội Ðồng Ðịa Hạt Sài Gòn;
7. Trương Văn
Bền, Hội Ðồng Ðịa Hạt Chợ Lớn;
8. Nguyễn Tấn
Văn, Hội Ðồng Thành
Phố Sài Gòn;
9.
Nguyễn Tấn Ðạt, Hội Ðồng Ðịa Hạt Sa
Ðéc;
10.
Nguyễn Kim Ðính, Chủ
Nhiệm báo Ðông Pháp, Sài Gòn;
11.
Võ Công T?n, Hội Ðồng Ðịa
Hạt Chợ Lớn;
12.
Nguyễn Huỳnh Ðiểu,
Hội Ðồng Canh Nông Trà Vinh;
13.Trần
Huy Liệu, tự Nam Kiều, Chủ Bút báo Ðông
Pháp, Sài Gòn;
14.
Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh
Lý, Sài Gòn;
15.
Trương Văn Công, Hội
Ðồng Thành Phố Chợ Lớn;
16.
Huỳnh Ðình Ðiểu, nhân sĩ,
Sài Gòn.
Ủy
ban tổ chức lễ quốc táng Phan Chu Trinh đã
thống nhất giao cho nhà văn Phan Khôi viết lời
"Hiệu triệu quốc dân" nhân việc tạ
thế của nhà yêu nước vốn được toàn
dân kính trọng! Họa sĩ Ðặng Văn Ký lãnh
nhiệm
vụ tìm đất, chọn làm nơi an nghỉ của
chí sĩ Phan Tây Hồ. Và ủy ban tổ chức cũng
đã quyết định ngày làm lễ quốc tang cho
cụ - ngày 04 tháng Tư năm 1926 (Bính Dần). Vậy
là,
thi hài của cụ Phan được quàn trong một
tuần để cho mọi giới đồng bào
khắp ba kỳ có thời gian đến kính điếu.
Theo
sự quan sát và thông tin của báo chí
ở Sài Gòn lúc bấy
giờ thì hàng ngày có cả ngàn người
đến dâng
hương, kính điếu, đặt vòng hoa thương
tiếc và tưởng nhớ đến nhà yêu nước
Phan Chu Trinh (66). Người ta nhận thấy có mặt
đầy đủ các đại diện của các
đảng phái, tôn giáo, đoàn thể và
các công chức,
học sinh... đều đến thành kính nghiêng mình
trước thi hài của nhà ái quốc suốt đời
hy sinh cho dân tộc!
Trong lịch
sử cận đại Việt Nam chưa thấy có
một quốc tang nào, được đồng bào
mọi giới khắp ba kỳ (đông nhất là ở
Nam Kỳ tham gia với con số lên tới hàng chục
vạn người tiễn đưa linh cửu
đến nơi an nghĩ cuối cùng, như lễ
quốc tang cụ Phan Chu Trinh. Ðúng là:
-
"Vì nước quên nhà, hai mươi năm bôn ba,
trời đất trông ra còn hẹp,"
-
"Ðem thân cứu thế, Một bầu tâm huyết,
quỉ thần xem thấy phải kinh" (69).
Ðúng 6
giờ sáng ngày 04 tháng Tư năm 1926 (tức
ngày 22 tháng Hai
năm Bính Dần) đám tang cụ Phan Chu Trinh đã
được tiến hành theo nghi thức quốc tang, mô
phỏng theo quốc tang của lãnh tụ cách mạnh Trung
Hoa Dân Quốc Tôn Dật Tiên. Thực tế đó
đã
chứng tỏ một cách hùng hồn rằng: Cụ Phan
Chu Trinh đã được tôn vinh như một lãnh
tụ cách mạng đấu tranh cho dân quyền!
Linh
cữu của cụ Phan Chu Trinh được đặt
trên một chiếc xe tang do ngựa kéo, và một số
Ðảng Thanh Niên Cao Vọng (còn gọi là Việt Nam
Thanh
Niên) của Nguyễn An Ninh, được cữ ra
để phò linh cữu của cụ. Ði đầu linh
cữu là toán học sinh trường Nguyễn Phan Long
với Một tấm bảng lớn, chữ trắng trên
nền nỉ đen như sau:
Deuil
National
A Notre
Compatriote Regretté
Phan
Chu Trinh
Ði
tiếp sau linh cữu, các toán xếp hàng theo thứ tự
trước sau như:
-
Học sinh trường bản quốc Sài Gòn
- Học sinh
trường trung học Mỹ Tho
- Học sinh
trường Nguyễn Xích H?ng
- Nữ Học sinh
các trường
- Công
nhân sở Ba Son
- Ðoàn
Phự nữ Việt Nam
- Ðoàn
Ðảng Thanh Niên Cao Vọng
Và hàng
trăm ngàn đồng bào của mọi tầng lớp xã
hội ở Sài Gòn nối tiếp theo sau (68). Xe tang và
đoàn người khổng lồ đã diễn qua trung
tâm thành phố, tiến về nghĩa trang Hội
Tương Tế Gò Công (gần phi trường Tân Sơn
Nhất hiện nay). Trong khi tang hành, dàn nhạc của
trường Taberd trổi lên liên tục các bản nhạc
thương tiếc và các bài thánh ca, thật
làm xúc
động lòng người như hai câu để
đời của "Ðảng Tháp thời báo" đã
viết:
- "Thiên hạ theo về, tổ chức
dân đoàn tài
đại lão"
- "Tiên sinh đi mất,
đánh tan đế chế
biết là ai?"
(69)
Hoặc
như hai câu thơ:
"Chí kia chưa đặc công
chưa lập
Non nước nghìn thu luống thở
dài".
Vào
thời trước quốc tang của cụ Phan Chu Trinh,
chưa bao giờ có đám tang nào nhận được
nhiều điếu văn như quốc tang của nhà yêu
nước Phan Chu Trinh. Có đến 40 tỉnh và
địa phương từ khắp ba miền của
đất nước đã tới tấp gởi
điện văn chia buồn, thương tiếc nhà ái
quốc và hứa hẹn noi gương nhà chí sĩ Phan Chu
Trinh, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh vì dân
chủ tự do cho dân tộc Việt Nam ! Phan Bội Châu
từ Huế cung gửi điện văn vào tỏ lòng
thương nhớ và cảm xúc trước sự ra
đi của người bạn chung chí hướng
cứu nước, cứu dân, nhưng không cùng
đường lối cách mạng (70).
Trước
giờ hạ linh cữu của cụ Phan Tây Hồ
xuống huyệt mộ, rất nhiều bài điếu
văn mang tính lịch sử của cuộc đời nhà
yêu nước đã gắn bó với vận mệnh
của dân tộc, đã được đọc lên
trước hàng vạn người tham gia ngày quốc táng
của cụ, gieo vào lòng quần chúng nhân
dân Việt Nam,
không chỉ gieo vào lòng người một nỗi tiếc
thương, mà còn thúc đẩy sự giác ngộ
và
thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào
Việt Nam lúc ấy, và cũng đã để lại cho
thế hệ ngày nay và mai sau những lời lẽ bất
hủ. Có những bài điếu văn của đoàn
thể như: Ðiếu văn của Hội Gò Công
Tương Tế, của tập thể công nhân viên Ba Son
... và của Những cá nhân như điếu văn
của ông Bùi Quang Chiêu và điếu văn của cụ
Huỳnh Thúc Kháng v.v...
Mỗi
điếu văn có thể xem là một áng văn lịch
sử, có những nét độc đáo riêng về sự
diễn tả tấm lòng kính trọng, tiếc
thương và nêu cao gương chí sĩ của cụ Phan
Chu Trinh, làm cho người nghe vừa xúc động,
vừa tự hào về một con người "đã
chết về thể xác mà tinh thần vẫn sáng mãi
trong
lòng dân tộc"!
Ðiển
hình như bài điếu văn của Hội Gò Công
Tương Tế, có đoạn viết rằng: "Cụ
là một nhà Ðại Chí Sĩ Việt Nam, bình
sinh cụ
thương nước yêu dân hơn gia đình thê tử.
Người Việt Nam xa gần ai cung đều kính
mến cụ". "Hôm nay chẳng may cụ tạ
thế ở trong Nam, hài cốt quý báo của cụ giở
trong một khoảng đất tuy hẹp hòi thấp
thỏi, không xứng với tâm tính cao thâm của cụ
mặc dầu, nhưng cũng là một khoảng
đất Việt Nam, nên có lẽ cụ cũng vui lòng
nơi chín suối". Và "Nghĩa địa Gò
Công chúng tôi nguyện sẽ chăm sóc, gìn
giữ, bồi
bổ phần mộ cụ đời đời!"
Càng
xúc động hơn khi đọc những đoạn sau
đây, trong điếu văn của công nhân Ba Son,
rằng:
"Ngài ôi! Trải mấy năm lao
khổ, chưa phỉ ước nguyện, sao Ngài vội
tách theo miền di lộ; Một gánh non sông quằn
quại. Ngài đã đành trao lại cho hậu sinh.
Gương trung nghia ấy chúng tôi xin noi dấu..." Và "Anh
em tâm huyết ta ơi! Ðường hãy còn nhiều nỗi
chông gai, vậy thì đồng bào ta vịn lấy nhau
nơi dấu tiền hiền, cho người quá vãng
ngậm cười nơi cõi thọ."
Còn ông
Bùi Quang Chiêu (Chủ Tịnh Ðảng Lập Hiến)
lại gửi gấm quan điểm của mình trong bài
điếu văn khóc cụ Phan Chu Trinh như sau: "Ôi!
Tây Hồ anh ơi! Anh đã vì nước, vì đồng
bào mà lăn lóc trong đám chông gai,
chẳng quảng thân,
chẳng nhà mà chịu hao mòn tâm huyết, để
yêu
cầu điều công lý, sự tự do, nên anh đã
đề xướng cái chủ nghĩa Ý-Pháp cầu tiến
bộ, cái chủ nghia cao thượng ấy ngày nay các
phái
Pháp-Việt quốc dân học thức đều hoan nghênh
sùng bái... ". "Vậy là tôi và anh chị
em đây xin
thề cùng anh rằng nắm chặt mối dây đoàn
thể Trung Nam Bắc, để giữ gìn nhau mà bảo
thủ cho cái chủ nghĩa Pháp-Việt đề
huề".
Người
bạn tù với cụ Phan Chu Trinh ở Côn Ðảo
(1908-1910), ông Huỳnh Thúc Kháng - thay mặt cho
anh em
Trung-Việt đã đọc một bài điếu văn
mang ý nghĩa lịch sử rõ nét nhất về quan
điểm chính trị của nhà yêu nước Phan Chu
Trinh. Ðoạn văn xúc tích nhất trong điếu văn
của ông Huỳnh Thúc Kháng là: "Một đoạn
lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm
trời, nào bị tù đày, ở nước này sang
nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây
phút này không thể lược thuật lại cho
được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà
nói sơ:
Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh
đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn
cái
phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường
nói
rằng: "Tình hình trong nước ta bây giờ đang
vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần
liên
lạc đoàn thể mới được". Tiếc
cho người nước mình còn đang mê mộng,
đồng chí với tiên sinh chẳng được
mấy người. Vì vậy mà tấm lòng bị phân
hóa ra
uất ức, uất ức hóa nên đại bịnh;
huống gì những điều mắt thấy tai nghe
dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được,
chết được, thương ôi!"
Nếu
đoạn văn rõ nét về ý nghia lịch sử về
quan điểm chính trị, thì đoạn kết của
bài điếu văn, ông Huỳnh Thúc Kháng đã
viết
bằng trái tim rướm máu của một nhà nho yêu
nước, thương tiếc đồng chí của mình
rằng:
"Thôi, đất vàng một
nắm, giấc mộng
ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc.
Chúng
tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí
tiên
sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh
hồn
tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm
cười nơi chín suối vậy."
Phan
Bội Châu trong những năm Ðông Du còn phản đối
thuyết dân chủ của Phan Chu Trinh, nhưng lúc Phan
Tây
Hồ đã qua đời, trong bài Văn Tế khóc
người bạn cố tri, Phan Bội Châu hình như
đã thừa nhận quan điểm dân chủ của Phan
Chu Trinh rằng:
"Thương ôi !
Bể bạc còn
trơ
Trời xanh khó
hỏi.
Nghìn vàng khôn chọn
lấy anh hào,
Tấc dạ dám
thề cùng sông núi.
Trước đã
giỏi thời sau nên giỏi nữa, dấu "Cộng
Hòa" xin ráng sức theo đòi,
Thác còn thiêng thời
sống phải thiêng hơn, "độc lập"
quyết điều tay xin với,
Lời này ông có xét
chăng?
Lòng ấy trời
đã soi dọi!"
Ðặc biệt còn có
một số nhân vật trong hàng ngũ lãnh đạo
của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng cũng đã gởi
điếu văn đến để tưởng
nhớ nhà ái quốc Việt Nam Phan Chu Trinh. Bài điếu
văn có tính chất quốc tế này được
lược dịch như sau:
"Chúng tôi là Phan
Kiến Minh, Lương Chí Vĩ thuộc Ðảng Quốc
Dân nước Tàu,
xin kính dâng một nén hương thơm,
ba ly rượu lạt, đọc bài văn tế ở
trước linh hồn Phan Quân rằng:
Phan Quân chết
rồi, tinh thần không chết,
Sự nghiệp cách
mạng, gắng không đoái mình.
Lập công chưa
rồi, chợt vậy đã chết,
Hỡi trời xanh
kia, sao nỡ làm rầu người triết nhân ấy?
Hết thảy
người Nam Việt đều để tang, ngọn
gió đau thương thổi vào hiu hắt.
Ta đây là bạn
đồng chí, giọt nước mắt thắm áo.
Chỉ mong những
người sau, noi theo cái tinh thần ấy.
Cùng nhau ráng sức,
đời chờ tới chủ nghĩa tam dân.
Rồi hai giống,
người Tàu, người Nam, dắt tay nhau cùng thân,
cùng
yêu.
Giải trừ chuyên
chế, thức tỉnh người đồng bọn.
Hy sinh đưa
chết, chết thành được nhân
Thương ơi!
Xin hưởng" (71)
Ngoài những bài
điếu văn, còn có vô số câu đối kính
dâng
hương hồn cụ Phan Chu Trinh, trong đó nổi
bật là những câu đối của các ông: Phan Bội
Châu, Nguyễn An Ninh, Sở Cuồng Lê Dư, Ngô Ðức
Kế, Dương Bá Trạc và Mai Ðăng Ðệ ...
Nói chung, các câu
đối, tuy khác nhau về nội dung đều tỏ
thương tiếc nhà yêu nước đã ra đi quá
sớm, trong khi "Biển thẩm lấp chưa
bằng, tinh vệ còn đội đá" (Phan Bội
Châu), mà chưa làm được nguyện ước "dắt
dìu nhau vì hai mươi triệu đồng bào gánh
một
cái gánh nặng" (Nguyễn An Ninh), nên đã
hận cao
xanh rằng: "Trời không để sót lại
một ông già cho ta" (Sở Cuồng Lê Dư). Còn
cụ Nghè Ngô Ðức Kế thì lo lắng: "thương
nỗi đoàn sau ngơ ngáo, giang san gánh vác
biết cùng
ai?" Nhưng ông cu Dương Bá Trạc thì đề
cao tinh thần: "vì nước vì nòi, gan sắt dễ
đâu vùi nơi chín suối!" Rõ ràng,
Phan Chu Trinh
chết vào năm 1926 là một tổn thất lớn cho
phong trào duy tân của nước Việt Nam; nhưng cái
chết của cụ Tây Hồ cung để lại cho
lịch sử đấu tranh cho dân quyền của dân
tộc Việt Nam những bài học quý giá mà
ngày nay các
thế hệ nối tiếp cần rút kinh nghiệm.
Không có ai có thể
nghi ngờ lòng yêu nước nhiệt thành của Phan Chu
Trinh! Không người nào không kính trọng tinh
thần hy
sinh của Phan Chu Trinh suốt đời với sự nghiệp
Ðộc Lập, Tự Do của đất nước và
dân tộc Việt Nam. Thực tế đã chứng minh
một cách hùng hồn qua ngày lễ quốc táng của
cụ!
Nhưng không phải
vì thế mà các sử gia không suy xét về
chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề" của ông.
Vì sao chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề" của Phan
Chu Trinh đã bị nhiều bạn bè, đồng chí
của ông không tán thành? Phan Văn Trường
đã giải
bày câu hỏi này như sau:
"Trước khi
viết bản thỉnh nguyên (tức bản "Ðầu
Pháp Chính Phủ Thư") (72) ông hỏi ý kiến
nhiều bạn bè nhà Nho của ông. Họ khuyên
ông
đừng viết, bảo rằng: "Chính sách thuộc
địa chỉ dựa trên sự dung hợp quyền
lợi. Thế nhưng trong vấn đề giáo dục,
người Pháp nhận thấy quyền lợi của
họ đối lập với quyền lợi của
chúng ta đến mức họ cho là không thể dung
hợp được. Vậy thì dù có trăm ngàn
người hay cả đến toàn thể nhân dân Việt
nam có ký vào bản nguyện thư của ông
thì chính phủ
Pháp cung sẽ không chấp thuận cho ông một
điều gì... Thế nhưng bạn bè không thuyết
phục được ông" (73)
Tại sao Phan Chu Trinh
lại không nghe lời khuyên của bạn bè, đồng
chí, mà ông vẫn cứ viết bản thỉnh nguyện và
đã gởi cho chính phủ Pháp ở Ðông Dương?
Ðiểm xuất phát
cơ bản để Phan Chu Trinh kiên trì chủ
trương "Pháp-Việt Ðề Huề", đã
được trình bày tỏ khá rõ ràng trong
bức thư
gởi chính phủ Pháp hồi 1906, là vì
ông muốn "chính
phủ (bảo hộ) biết hối ngộ lại mà mau
đời lại chính sách, kén dùng hiền
tài, giao cho
quyền bính, lấy lễ đãi người, lấy lòng
thành xử với người, rồi cùng nhau trù hoạch
cái kế sách chung hưng lợi trừ hại, mở con
đường nuôi sống cho dân nghèo, cho nhân sĩ
cái
quyền nghị luận, mở nhà báo để thấu rõ
dân tình, minh thưởng phạt để thanh trừng
lại tệ, những việc cần thiết như
đổi pháp luật, khoa cử, mở nhà học,
dựng phòng sách, chấn hưng công thương kỹ
nghệ, các việc đều lần lượt cải
lương, như thế thì dân Nam ai cũng yên vui, lại
chỉ sợ nước Pháp bỏ nước Nam đi mà
thôi, còn cái gì mà kình địch
nữa."
Sở dĩ Phan Chu
Trinh chủ trương kêu gọi thực dân Pháp thực
hiện cải cách vì ông thấy dân ta chưa đủ
lực để mà tiến hành lật đổ ách thuộc
địa của thực dân Pháp bằng bạo lực!
Ðúng vậy! Thực tiễn lịch sử trong mấy
thập niên đầu thế kỷ 20 của nước
ta, đã chứng thực rằng dân tộc ta chưa
đủ lực để quật ngã sự thống
trị của thực dân Pháp bằng đấu tranh vũ
trang để khởi nghĩa cướp chính quyền,
thực hiện độc lập, tự do cho dân tộc.
Từ giữa năm 1924, Nguyễn An Ninh đã tổng
kết thực tế lịch sử này như sau: "Phan
Chu Trinh đã sống ở Paris, tuổi già đã hạn
chế không cho phép ông hoạt động tích cực.
Ðề Thám không tìm ra được một người
nối chí. Phan Bội Châu không còn nữa.
Thành Thái và vua Duy
Tân chỉ còn cách tiêu khiển thời gian
trên sân quần
vợt. Nhóm Gilbert Chiêu còn lại chỉ có hai,
ba
người sống sót... Những người khác sống
lưu vong nơi đất lạ, chịu bao nỗi
đau lòng tủi nhục, họ chỉ còn lại những
giất mơ về một cố quốc được
thoát khỏi bàn tay kẻ ngoại bang để dịu
vợi bớt cuộc sống quá nhọc nhằn..."
Tuy "thỉnh thoảng vẫn có vài phong trào quần
chúng rời rạc, nông nổi mà chỉ cần một
trăm họng súng, một hai khẩu liên thanh là
có thể
dập tắt được, và chỉ một tháng sau thì
sự im lặng lại xóa nhà trong ký ức mọi
người cơn giận dữ của một dân tộc
bất lực" (La Cloche Fêlée, 15-6-1924).
Chính vì thực tế
lịch sử quá phũ phàng đó mà Phan Chu Trinh
nuôi ảo
tưởng vào sự cải cách của chính phủ
thực dân Pháp, nên ông đã đề nghị tha
thiết
rằng: "Nếu quan lớn bảo hộ mà có
tấm lòng thành thật khoản đãi dân Nam,
thì nên
lượng tấm lòng của tôi, nhận lời nói
của tôi, cứ gọi tôi đến tôi sẽ nói cho
mà
nghe..." (Thư đã dẫn). Sự thất bại
của Phan Chu Trinh trong chủ trương "Pháp Việt
đề huề" là bắt đầu từ sự
nhận thức sai lầm về bản chất của
chủ nghĩa thực dân Pháp (!)
Gián tiếp phê phán
Phan Chu Trinh về phương diện này, Nguyễn An Ninh
đã viết rằng: "Làm sao mà người ta có
thể nghĩ đến sự hợp tác thật sự
và chân thành, trong khi quan niệm thực dân
vẫn là đào
tạo những người An Nam làm tay sai nhằm thực
hiện mệnh lệnh của ông chủ Pháp." Và "Chừng
nào có người chiến thắng và kẻ chiến
bại, có kẻ đi đàn áp và người bị
đàn áp, có chủ và nô lệ, thì
không thể có sự hòa
hợp giữa người và người" (Bài báo
đã dẫn).
Thật tội nghiệp cho lòng yêu
nước của một nhà Nho ôn hòa, chỉ vì sợ
dân
Việt phải chịu hy sinh quá nhiều trước
họng súng, làn đạn bạo tàn của thực dân
Pháp, mà ông cố kiên trì chống chủ
trương
đấu tranh vũ trang (hay bạo lực cách mạng)
của Phan Bội Châu, dẫn đến sự bất
hợp tác giữa hai người đồng chí
hướng, như Phan Bội Châu đã kể lại khi
Phan Chu Trinh gặp ông ở Nhật: "Từ đó luôn
mười ngày hơn, tôi với cụ (Tây Hồ) bàn
bạc, ý kiến rất trái nhau. Cụ thì muốn đánh
đổ quân chủ, mà cốt lấy nền tảng dân
quyền, hãy dựa vào Pháp mà đánh đổ
quân
chủ..." (Tự Phán)
Thái độ kiên trì
đề huề với Pháp của Phan Chu Trinh làm cho
nhiều bạn bè yêu nước và cách mạng
cùng thời
của ông đều khó hiểu, ngay cả luật sư
Phan Văn Trường cũng phải tỏ ra không hiểu
nổi người bạn của mình, rằng: "Ông
Phan Chu Trinh là một người bền chí. Tuy phải
sống trong cảnh buồn khổ và tủi nhục, ông
vẫn nuôi hy vọng một ngày kia sẽ tranh thủ
được ân huệ của chính phủ thực
dân." "Người ta nghĩ rằng sau
những bài học đau đớn (bị Pháp bỏ tù)
ấy, ông Phan Chu Trinh sẽ chữa được
bệnh lạc quan, rằng lần này ông sẽ dứt
khoát từ bỏ hy vọng lại được chính
phủ thực dân thi ân bố đức. Thế nhưng
không phải vậy! Ông ứng xử như chẳng có
việc gì xảy ra. Ông nối lại quan hệ với
Bộ Thuộc Ðịa, lại tìm cách tiếp cận
với những kẻ ngược đãi ông, nhiều
lần xin yết kiến ông Albert Sarraut" (trong "La
Vérité sur L'Indochine, chương X).
Chính vì thái độ
nhẫn nhục để hợp tác với Pháp của Phan
Chu Trinh như thế, nên có người đã nghi ngờ
lòng yêu nước, yêu dân tộc của ông. Thật
là
đau lòng! Một con người có lòng yêu nước,
đấu tranh cho quyền sống của dân tộc
thật sự như Phan Chu Trinh mà còn bị nghi ngờ!
Ðó
là một sự hẹp hòi, chủ quan, không nhìn thấu
bản chất của Phan Chu Trinh (cho dù đó chỉ là
yêu
nước theo con đường cải lương
chủ nghĩa!) Không nên nghi vấn lòng yêu nước
cũng như thái độ mong muốn (một cách ảo
tưởng) trong việc hợp tác với thực dân Pháp
của Phan Chu Trinh, mà chỉ xem xét nguyên
nhân bảo thủ
ý kiến "Pháp Việt Ðề Huề" của ông là
bắt nguồn từ đâu (?)
Ngoài cách nhìn
không
thấu triệt thực tế lịch sử chuyển
biến đấu tranh giải phóng dân tộc ở
đầu thế kỷ XX, tương quan chặt chẽ
với phong trào cách mạng dân chủ trên
toàn thế
giới, Phan Chu Trinh còn bị sự ràng buột quá nặng
nề vào tư tưởng cải lương của Khang
Hữu Vị và Lương Khải Siêu (hai nhà cải
lương chủ nghĩa của Trung Quốc) mà Phan Chu
Trinh đã hâm mộ, như Nguyễn An Ninh đã nói:
"Phan Chu Trinh trong mấy mươi năm ở Pháp
cứ ôm bộ " Băng" của Lương
Khải Siêu, cho đến ngày về cũng đem theo tàu
để lót đầu nằm" (Báo Trung Lập, ngày
27-4-1933, bài "Vài Lời Nhắc Nhở"). Tệ
hại thay cái tính bảo thủ, nhất là bảo thủ
quan điểm chính trị đã lỗi thời, hay không
thích hợp với thực tế lịch sử! Có lẽ, Phan Chu Trinh cứ nghĩ
là việc kiên trì
"Pháp-Việt Ðề Huề" của mình là đúng,
nên
không chịu nghe lời khuyên của Phan Văn Tường
và Nguyễn An Ninh.
Thật
chí lý thay! Khi Nguyễn An Ninh tuyên bố trước
công
luận rằng: "Chống đối lại một
trật tự, phải dùng một trật tự khác, giáng
trả lại một sức mạnh, bằng một
sức mạnh". Vì vậy "cho dù "có" hay
"không" tiến hành cuộc cách mạng (ở
Việt Nam), thì một công việc chắc chắn
trước mắt có thể làm được là
đấu tranh chống những hành vi bạo ngược
đã hằn sâu trong tập quán thực dân,
làm cho bầu
không khí trở nên nghẹt thở, gieo rắc nung nấu
một hận thù kẻ thắng trận trong lòng
người chiến bại" ("Có thể tiến
hành một cuộc cách mạng hay không?" La Cloche
Fêlée,
15-6-1924).
Tóm
lại, chủ trương "Pháp-Việt Ðề
Huề" của Phan Chu Trinh thật sự không phải
là bài học để đời sau noi theo, mà nó chỉ
là
một kinh nghiệm thất bại để cho các
thế hệ cách mạng nối tiếp nhận thấy
rõ để tránh đi trên con đường ảo
tưởng trong sự hợp tác với kẻ thù, mong
kẻ thù ban bố ân huệ cho mình (!) Nhưng Phan Chu
Trinh
đã để lại một tấm gương hy sinh cao
cả, không vụ lợi để cho các thế hệ sau
noi theo. Sự hy sinh cho Tổ Quốc và Dân Tộc của
Phan Chu Trinh thật vô cùng có ý nghĩa lịch
sử,
giống như câu nói lưu truyền muôn đời
của Danton: "Không ai mang tổ quốc theo bên
mình,
dưới đế giày để vọng mãi bên tai
những người đã đạt được trình
độ làm chủ được mình, vì họ đã
hiểu rằng sinh ra giữa dân tộc này trong giai
đoạn lịch sử hiện nay, họ có nghĩa
vụ phải hy sinh cả cuộc đời. Cuộc
sống của họ là một cuộc sống phải hy
sinh!"
Lê
Tùng Minh
Chú
Thích:
1. Xem "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa" - bài diễn
thuyết của Phan Chu Trinh vào cuối năm 1925, tại
nhà Hội Việt Nam (tức Hội Quán Thanh Niên
Sàigòn).
2. Lúc này, Phan Bội
Châu cùng các đồng chí của ông đang
tích cực trù
tính việc xuất dương (1915) để lo cho phong
trào Ðông Du.
3. Bài thơ này nguyên
văn bằng chữ Hán. Trên đây là bản dịch
của báo "Thời Cuộc" số 169, ngày 24-3-1955.
Bài "Chí Thành Thông Thái" được Phan
Chu Trinh làm,
nhân khi tới Bình Ðịnh, gặp lúc quan tỉnh khảo
hạch học trò. Có nhiều bản dịch khác nhau
về ngôn từ. Chúng tôi thấy bản dịch trên
đây
là sát ý, nghĩa rõ ràng nhất.
4. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", nhà xb Xuân Thu, Los Alamitos,
California, USA,
1998, tr. 75.
5. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", đã dẫn, tr. 77.
6. Phan Bội Châu:
"Tự Phán", đã dẫn, tr. 78
7. Phan Chu Trinh, thư
gửi chính phủ Pháp, ngày 15-8-1906. Xem
"Tài liệu tham
khảo cách mạng cận đại VN", Tập III,
nhà xb Văn Sử Ðịa, Hà Nội, 1958.
8. Phan Chu Trinh,
"Thư gửi chính phủ Pháp", đã dẫn.
9. Ông Huber đã
dịch bức thư này sang Pháp ngữ và cho đăng
trên tạp chí Trường Viễn Ðông Bác Cổ
vào năm
1907. Xem thêm bản quốc ngữ do ông Ngô Ðức Kế
dịch, đăng trên "Tân Dân Tuần Báo" (24-3-1949).
10. Bài thơ này
viết bằng chữ Hán và Phan Khôi đã dịch ra
quốc âm (như trên)
11. Huỳnh Thúc Kháng:
"Thi Tù Tùng Thư".
12. Huỳnh Thúc Kháng,
đã dẫn
13. Phan Chu Trinh có 3
người con: hai gái, một trai. Chị cả là Phan Chu
Liên, sau trở thành vợ của Ðốc học Lê Ấm,
Chị hai là Phan Chu Lang, sau làm vợ của Kinh Lý
Nguyễn
Ðồng Hợi. Phan Chu Dật là con út.
14. Phan Chu Dật vào
học trường Montparnasse, và nổi tiếng là học
giỏi nhất lớp.
15. Sự việc này
Phan Văn Trường có nói trong cuốn "Une histoire des
Conoperateurs annamites à paris" ou La vérité sur
L'indochine", nhà
in Ðông Pháp - Nguyễn Kim Ðính, Gia
Ðịnh, 1928. Xem chương
X: "Nhà nho Phan Chu Trinh và nỗi thống khổ của
ông."
16. Theo thư viết
tay của trùm mật thám ở Paris - Paul Arnoux - gửi
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Pháp (thư
đề ngày 22-11-1919) - Arnoux là Vụ Trưởng Vụ
Tình Báo Chính Trị Ðặc Biệt kiêm
Phó Giám Ðốc
Tổng Nha Giám Sát Người Ðông Dương tại
Pháp.
17. Phan Văn
Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ai
Quốc sau này).
18. Trương Duy
Toản (1885-1957) làm thư ký tại văn phòng
Khâm Sứ
Pháp ở Cambodge, sau tham gia Việt Nam Quang Phục Hội,
đi Châu Âu với Cường Ðể vào năm 1913, bị
Pháp bắt giam ở Paris một thời gian rồi
giải về nước. Ra tù, làm báo ở
Sàigòn.
19. Tòng Lâm:
"Cuộc Ðời Cách Mạng Cường Ðể" -
Tôn Thất Lễ xuất bản, Sàigòn 1957, tr. 86.
Có
người cho rằng: "Phan Chu Trinh đã hiểu
lầm nên Trương Duy Toản phải vào tù" ?
20. Theo "Hồ Chí
Minh à Paris" của Thu Trang, Gaspard L'Harmattan - paris, 1992,
tr.
41.
21. Phan Văn
Trường "La vérité sur l'Indochine", đã dẫn, tr.
81.
22. Theo "Phan Chu
Trinh..." của Thế Nguyên, nhà xb VHTT,
sàigòn, 1998, tr.
39-40.
23. Theo Hứa Hoành,
dẫn trong bài "Lễ quốc táng nhà cách mạng
Phan Chu
Trinh...", đăng trên bán nguyệt san Tự Do, Houston,
Texas.
24. Phan Chu Dật
về nước và chết trước khi Phan Chu Trinh ra
tù (8-1915).
25. Theo Thế Nguyên,
sách đã dẫn, tr. 40.
26. Sai Chiến Tranh
Thế Giới II, M. Moutet làm Bộ Trưởng Bộ
Nước Pháp Hải Ngoại (Bộ Thuộc Ðịa
cũ)
27. Phan Văn
Trường "La Vérité sur L'Indochine", đã dẫn, xem
Chương X: "Nhà nho Phan Châu Trinh và nỗi thống
khổ của ông".
28. Khánh Ký (tên thật
là Nguyễn Ðình Khánh) là người tận
tình giúp Phan Chu
Trinhhành nghề sửa ảnh. Khánh Ký quê ở Nam
Ðịnh,
sang Pháp kinh doanh máy ảnh và dụng cụ nhiếp ảnh.
Ông đã mở một hiệu ảnh ở Sàigòn (số 34
đường Bonard). Năm 1946, Khánh Ký đã qua
đời tại Pháp, và nộ táng của ông
được tọa lạc trong nghĩa địa Thoais
Parisien (Paris).
29. Theo báo cáo ngày
8-1-1920, viên mật thám Jean cho biết: "Khách
Ký và Phan Chu
Trinh "cũng giúp đỡ ông Trường... làm
trạng sư không có văn phòng nên không
có nhiều thân chủ".
Sau khi ra tù (7-1915), Phan Văn Trường vẫn còn ở
lại trong quân ngũ, và làm thông dịch
viên tại một
Binh Công xưởng ở Toulouse cho đến hết chiến
tran (1918).
30. Tên chính thức
bằng tiếng Pháp là "Groupe Des Patriotes Annamites".
31. Nguyễn Tất
Thành đã căn cứ vào bản chữ Pháp, viết
than`h
bản quốc ngữ, theo thể thơ lục bát với
tựa đề là "Việt Nam Yêu Cầu Ca"
để phổ biến trong dân chúng Việt Nam.
32. 7 tội đó có
thể tóm tắt như sau:
1
- Tôn bậy quân quyền
2
- Lạm hành thưởng phạt
3
- Ưa chuộng sự quỳ lậy
4
- Xa xí quá độ
5
- Ăn mặc không phải cách
6
- Chơi bời vô độ
7
- Sang Pháp chuyến này có sự ám muội
(Xem
bản dịch của Nguyễn Kim Ðính)
33 & 34. "Thư
Thất Ðiểu",
đã dẫn theo bản dịch của Nguyễn Kim Ðính.
35. Phan Văn
Trường: "La Vérité sur L'Indochine" (Sự Thật
Về Ðông Ðương) đã dẫn.
36. Khoảng tháng
8-1920, Phan Chu Trinh xin gặp Albert Sarraut (Bộ trưởng
Bộ Thuộc Ðịa) đưa ra mấy điều
thỉnh cầu như: Cho người Annam được
tự do buôn bán, nâng cao trình độ học vấn hơn
đối với dân Annam... và ân xá tất cả
chính
trị phạm ở Côn Ðảo. Albert Sarraut hứa
"sẽ suy nghĩ" nhưng rốt cuộc chẳng
có thi hành điều thỉnh cầu nào của Phan Chu Trinh!
37. Xem bài "La
plaisauterie de l'entente franco-annaite" (Thỏa Hiệp
Pháp-Việt là một trò đùa) của Phan Văn
Trường - La Cloche Félée, số ra ngày 22-4-1926.
38. Hoàng Xuân Hãn, trong
lời tựa cuốn "Những Hoạt Ðộng
Của Phan Chu Trinh Tại Pháp..." của Thu Trang, nhà xb
Ðông Nam Á, Paris, 1983.
39. Chính P. Guesde đã
sắp xếp cho Phan Chu Trinh vào làm công việc rửa
và
sửa ảnh tại triển lãm thuộc địa
ở Marseille từ đầu năm 1921 (?).
40) Theo báo cáo của mật
thám Désiré
(26-6-1925), về nước, Trần Văn Khá gia nhập
Ðảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu; và
được thực dân Pháp đưa vào làm nghị
viên
Hội Ðồng Quản Hạt... Ðến năm 1951, Khá làm
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế Quốc Gia (của
chính phủ Quốc gia do Bảo Ðại làm Quốc
Trưởng. Sau đó, Khá đi làm đại sứ
Việt Nam tại Mỹ cho đến ngày 6-8-1954.
41) & 42) Phan Chu Trinh đã
nói trong bài
thuyết trình về "chính sách đối với
người bản xứ ở Ðông Dương" vào
đêm 3-2-1925, do Hội LHPÐD tổ chức tại Hội
quán Sociétés Savantes số 8 đường Danton (Paris).
Theo
Thu Trang, sách đã dẫn, trang 200.
43) Thu Trang, sách
đã dẫn, trang 200.
44) Nguyễn An Ninh
trở sang Pháp lần thứ tư (1-1925 -- 6-1925) nhằm
mục đích mở chiến dịch đấu tranh
tại Pháp để đòi "quyền Tự do cho
người An Nam". Ông đã đi diễn thuyết
nhiều nơi trên nước Pháp, và đã cho xuất
bản cuốn sách của ông vừa viết xong (4-1925)
tại Paris. Ðó là cuốn "La France en Indochine"
(nước Pháp ở Ðông Dương), do nhà in A và
F
Debeaufauve Tournefort- Paris ấn hành 2000 quyển, phát
hành
tại Paris và chuyển về nước 150 quyển.
45) Khách sạn
Chiêu Nam Lầu do chính bà Nguyễn Thị Xuyên
(bí danh Chiêu Nam
Lầu) là cô ruột của Nguyễn An Ninh, cùng bà
Nguyễn An Khương (mẹ của Nguyễn An Ninh)
tổ chức và cai quản, nhằm làm nơi liên lạc,
đưa đón, học tập và an dưỡng các sĩ
phu đương thời; còn là nơi đưa
rước du học sinh sang Nhật trong phong trào Ðông Du.
Ðịa điểm khách sạn tại số 49 Nguyễn
Huệ ngày nay.
46) Theo Thế
Nguyên, sách đã dẫn, tr. 50.
47) & 48) Trích
nguyên văn trong bài "Ðạo Ðức Và Luân
Lý Ðông Tây"
của Phan Chu Trinh. Giải thích này của Phan Chu Trinh
có hoàn
toàn đúng hay không? Xin nhường lại cho các
nhà
đạo đức và luân lý học có ý kiến?
49), 50) & 51)
Dẫn nguyên văn của Phan Chu Trinh.
52), 53) & 54) Trích
nguyên văn, bài đã dẫn, của Phan Chu Trinh.
55), 56) & 57)
Nguyên văn của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
58) & 59) Nguyên
văn của Phan Chu Trinh trong bài "Quân Trị Chủ
Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa".
60), 61) & 62)
Nguyên văn của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
63) Nguyên văn
của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
64) Nguyên văn
của Phan Chu Trinh, bài đã dẫn.
65) Bùi Quang Chiêu
vừa mới ở Pháp về tới Sài Gòn vào
ngày 24-3-1926.
66) Hai người
con gái của cụ Phan đã có mặt bên linh cữu
của cha suốt trong những ngày này. Ðó
là Phan Thị Châu
Liên cùng chồng là Lê Ấm (giáo sư
trường Quốc
học Huế) và Phan Thị Châu Lan cùng chồng là
Nguyễn Ðông Hội (tham tá công chánh).
67) Hai câu
đối của Ðoàn Phụ Nữ Việt Nam. Nguyên
văn chữ Hán như sau:
- "Vị quốc vong thân, trấp
tãi bôn ba, thiên
địa ải,"
- "Ðỉnh thân cứu thế,
nhất xoang tâm
huyết, quỷ thần kinh!"
68) Nên nhớ, Sài
Gòn lúc này chỉ có số dân là
300.000 người. Vậy là
1/3 dân số Sài Gòn đã đi đưa tang cụ Phan
Chu
Trinh.
69) Nguyên văn
chữ Hán như sau:
- "Thiên hạ quy chi, tổ chức
dân đoàn suy
đại lão"
- "Tiên sinh khứ lữ,
đã phiên đế chế
thị thùy nhân".
70) Như Phan
Bội Châu đã viết trong cuốn Tự Phán của ông
rằng: "Cụ với tôi vẫn đồng một
mục đích, mà thủ đoạn thì khác nhau"...
"Chính kiến vẫn trái nhau, mà ý kiến rất ưa
nhau". "Cụ thì muốn đánh đổ quân
chủ, mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân
quyền... Còn ý tôi thì trước muốn
đánh
đổ người Pháp, chờ lúc nước nhà
độc lập rồi mới bàn đến việc
khác."
(Sách đã dẫn,
tr. 77, nhà xb Xuân Thu, Los Alamitos, CA, USA, 1998)
71)
Bản lược dịch của Nguyễn Văn Ðính.
72) Xem
bản dịch của Ngô Ðức Kế, đăng trên
"Tân Dân Tuần báo", số 3, 24 tháng 3 năm 1949.
73)
"Sự Thật Về Ðông Dương" (La varité sur
L'indochine), chương X, sách đã dẫn.