Áo Mới
Linh
Bảo
Linh Bảo (1953)
Chiếc
áo đầu tiên quý giá nhất trong gia
đình tôi là mộtchiếc “Áo vua ban"
.Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế,
mẹ tôi là một cô Tôn nữ
nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàngtộc ,
địa vị xa lắc xa lơ. Nhưng
cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen
biết để tiện việc mách mối
mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh
cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà
Phi, Bà Tân trong Hoàng cung.
Mách mối là một công việc buôn bán rất
nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho
thẳng, bôi dầu dừa bóng
loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được
là ủi thẳng và xếp thành
nếp hai bên, gọi là "xếp con " , năm con, bảy con
gì đấy, càng nhiều "
con" càng sang trọngquý phái. Ăn mặc tề chỉnh như
thế xong, bà chỉ việc
đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê
đôi mách một vài buổi. Thế là
"Mệ"nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn
mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà
chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm
viếng xã giao
vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm
về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là
đối với các Mệ, các
bà Phi,bà Tân không thể ra phố mua bán
tự do như người thường. Mẹ tôi
được các bà hoan nghênh vô cùng.Phải,
còn gì sung sướng hơn một bà Phi,
suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy "mặt rồng "của ông
chồng vua,
bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ
trênchiếc ghế bành chạm
trỗ tinh vi, còn“Hoàng Đế "thì đứng bên
cạnh, quàng tay qua lưng ghế,
như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh
rất giỏi và tính giá cũng rất“phải
chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với
những Cung Phi suốt đời, từ
lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn
là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi
họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm
mộ hư vinh đã được nuôi dưỡng từ
lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một
bà mẹ Vua. Vua còn
bé đang đi học xa. Bà ở nhà, sống một cuộc đời
vương giả. Suốt ngày bà
chỉ biết đánh bạc với những người đến "bẩm chảu"tiếng
riêng có nghĩa là
nịnh bợ.Bà đoạt kỷ lục về nợ nần,chỉ vay mà không
cần phả trả. Bà cho là
mọi người ai cũng có bổn phận phải cung phụng bà, đưa
tiền cho bà tiêu
xài như“đưa con vô Nội” một thành ngữ có
ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp
lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ,
khéo léo nói úp mở cho
họ biết, ngày "Hoàng Đế hồi loan " , bà sẽ đền ơn
trả nghĩa. Không biết
mẹ tôi có bị bà mê hoặc không,
mà nếu có thì chúng tôi, những ranh
con,
cũng không đượcquyền can thiệp.
Tôi còn nhớ bốn chị em tôi có bốn
chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp,
vừa để
dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền
có thể cầm bán tạm thờiqua cơn
túng ngặt. Bốn chiếc kiền glịch sử ấy có một con đường đi
bất di bất
dịch.Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà
nhà giàu chuyên cầm vàng bạc.
Chúng nó đi " lữ hành"như thế, ít nhất mỗi
tháng vài lần. Mỗi khi mẹ
tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ chưa được
nóng chỗ, thì
lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế, bốn
chiếc kiềng bé bỏng của
chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ
tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng
đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ nhận được
thì đi con đường
độc đáo một chiều, và là một con đường cụt.
Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ
tôi, rồi nhảy sang túi“Ngài "để rồi bị thủ
tiêu mất tang mất tích trong
chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì để
lại với đời.
Đã thế,
thỉnh thoảng "Ngài "lại "ngự "đến "tệ xá"của chúng
tôi ở Nam Giao,mặc
dầu "tệ xá"quả thực là quá tệ. Nó chỉ
là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào
một vùng đất trống, xưa kialà một bãitha ma to
lớn, cách xa thành phố
đúng ba cây số.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây "biệt
thự" , vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu
phổi nênphải thở không khí
có gió thông trong lành rất cần cho sức
khỏe. Ấy thế mà trong "tệ xá"có
rất nhiều đồ cổ quý giá.Những món ấy toàn
là của các Công nương, Mệnh
phụ gửi, nhờ cầm hay bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề
“nên dù ngày mai
không còn gạo để nấu cháo loãng, họ cũng vẫn
giữ bí mật, không bao giờ
dám ra mặt tự cầm bán đồ vật.Họ vẫn còn
làmbộ điệu rất kênh kiệu quí phái
cao sang,cả đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng .
-Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ "chém"một củ khoai chơi
nà!
Tuy
cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh "
khẩu khí"vẫn không hề
thuyêngiảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn
không bớt phần hấp dẫn thú vị
tí nào.“ Mệ” là tiếng xưng hômột bà
cụ rất già, hay những người trong
Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi,
hai bên trồng toàn thông xanh và phải
lên hai cái dốc rất cao. Thỉnh
thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe
kéo sơn
son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ,
chân quần xà cạp vàng, đầu đội
nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc.Sau xe
có hai cô bé con độ mười bốn,
mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu
chít khăn đồng màu, tóc xõa
ngang vai.Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống
nhổ bằng bạc, một cô
tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng,
cô bé
cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc
quạt lông lên,
phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống
đằng sau. Ấy thế
mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao,
ngót bốn năm cây
số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài "chễm chệ leo lên
chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ
đứng hầu hai
bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm
nghía, thưởng thức
các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi
"Ngài "rời gót ngọc, những
món đồ cổ không ít cũng được theo "Ngài
"ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp
vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào "Ngài
"cũng " ban truyền" :
-Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và
độc bình này đi. Cả cái Táo
lung Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền
lại cho. Còn cái sập
cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết
" Dạ"mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng
như người, khi đã được
"tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng
ái, số phận của đồ
vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữkhông được sũng
ái.Các cung nhân,
khi về già còn được thải hồi nguyên
quán,trái lại những món đồ cổ, càng
già càng quí thêm, càng không
mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua"rõ thật là "thua vấy"!
Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi
làm . Mẹ tôi giới thiệu
việc mua bán đồ cổ và ghép ảnh choQúy
Bà cô đơn.Tiền kiếm được, dùng để
nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn
để nuôi "Ngài " .
Một
hôm, chắc lương tâm "Ngài "thức dậy,hay là
"Ngài "sợ nợ mẹ tôi nhiều
quá, nếu kiếp nàykhông trả bớt, đến kiếp sau sẽ
thành ra "nợ thiên
khối" vốncộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau
thì nguy to,Ngài bèn long
trọng "tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân
tặng"cho mẹ tôi một
chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen, bên trong
lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc
áo còn thơm nức mùi xạ hương và
long não ướp lâu ngày.Mẹ tôi đem chiếc
áo ấy về, vênh vang như một kẻ
"áo gấm về làng" .Sự sung sướng của mẹ tôi, được
cái “ Áo Vua Ban”ấy,
cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh
ghép ngồi
chung với Đức Vua. Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh
hão huyền ra để
thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người
cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc
áovề phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những
ngày kỵ giỗ, lễ Tết,
cái“Áo Vua Ban" ấy được trân trọng "trình
bày "trên thân hình bé nhỏ của
chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp
vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo
còn rộng thùng thình, rồi
chật dần, ngắn dần cho đến khimặc khôngvừa nữa, phải cho chị Hai
tôi
thay thế. Từchị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm, rồi đến chị
Sáu, chiếc áo không phân biệt giới
tính ấy, mỗi năm lại có dịpđem ra
hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi
rồi cũng có ngàyđến lượt tôi
được xỏ tay.Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử
quí giá ấy ra để mặc
cho tôi và bảo:"Hoa ơi, cái áo này
bây giờ về phần con”,thì nó đã mục
nát và chỉ động đến là rã tan ra từng
mãnh!
Thời gian chờ đợi dù
lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung
Hoàng Thái Tửở Pháp học thành
tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm
Vua. Và cũng từ lúc ấy,
"Ngài Mẫu Hậu "ra lệnh không tiếp tất cả các chủ
nợ.Bây giờ, "Ngài "đã
thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ
nợ, và lại càng không
muốn gặp người nào đã từng quen biết"Ngài" những
năm
tháng hàn vi. Thật là
chí lý, chí tình vậy! Còn gì
khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, mà
ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày
xưa, đám người mình từngnhờ
vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã phải cầm
bán vay mượn cho mình
tiêu xài. Đó là mộtdĩvãng buồn, một
sỉ
nhục tinh thần, có thể làm mất
bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áođã
bao nhiêu năm chờ đợiđểđi mừng tuổi, nên tôi
khóc mùi khóc mẫn
cảbuổisáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi
chiếc áo quí đến phần mình thì hóa
ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng thật ra tôi
đã khóc cho cái ảo
ảnh "ân trả nghĩa đền"của mẹ tôi bị tan vỡ.Tôi
khóc cho cái chết của
chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi
dành
dụm được. Tôi khóc cho nền
móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được
dùng của cải ấy để bồi
đắp cho thể chất và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi ngày
một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung phụng
cho ai khác ngoài gia đình,
nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu có nhiều
món cá thịt ngon lành. Ba
tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng tôi biết về
những thức ăn bổ dưỡng
cần thiết cho sức khỏe, một đề tài trước kia õng cố
tránh.
Một
hôm, không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên
"phát từ bi tâm"may cho chị
Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa
một cái áo xa-tanh màu phấn
hồng.Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi
trong dịp ăn lễ đầy tháng
em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông
đợingày trọng đại, ngày được
mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng,
mát rời rợi và rộng
thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng
ông nội tôi chết. Tôi thấy cha
me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng
khóc.Nhưng thực ra, tôi không
nhớ đãđược thấy mặt ông nội tôi hồi nào.
Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc
áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được diện qua một lần,
vì phải
để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc
nhuộm răng.Chúng nó biến
thành một màu kỳ lạ, không vàng, không
lục, không xanh .Màu ấy, ba tôi
gọi mĩa mai một cách văn chương là màu"dưa cải
úa mùa thu" .Nếu bây giờ
bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là
một bức tranh lập thể may thành
áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng chất lên
nhau, níu kéo nhau chằng
chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng
tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi
bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng một
khi" đấng sinh thành" đã
quyết định thìcon cái phải vui vẻ “Dạ,Vâng”, mới
có hiếu. Phần các bậc
trưởng thượng thấy các con vui cũng tưởng thiệt mà vui
theo một cách dễ
dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của
áo, và áo cũng phải
cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ
con.Chúng tôi mặc nó lúc
nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt ngày đêm,
vò nát nó, ném nó từ
góc này sang góc khác. Đôi khi
còn cắn nát chéo áo để xem cái
mùi chua
chua,có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua như mùi
dưa cải úa, hay còn
lẫn mùi gìkhác nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy
cũng đáng thương như chúng tôi.Tâm hồn
chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành
một màu "dưa cải úa mùa thu " , hay cũng chỉ
là một bức tranh lập thể
chồng chấtnhững niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì
ai đâu!Thế mà chúng
tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi rách
nát, và cùng lúc ấy, tang ông
nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp
hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc
quá sặc sỡ lộng lẫy không
hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn chúng
tôi.Bốn chiếc "áo tế"vừa
dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi "ngày lành
tháng tốt "mới đem ra
diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve cái
áo một lúc.Tôi nâng nó
lên, áp chất mịn màng mát rời rợi lên
cằm, lên má.Tôi ướm nó vào người,
hít cái mùi thơm long nãoướp trừ sâu
mọt và mùi xạ hương từ trong áo
toát ra một cách say sưa.Nhưng cái " ngày
lành tháng tốt"ấy không bao
giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi mất.Kể ra
thì đó chỉ là một cái tang nhỏ
thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng tôi để tang. Và
một lần nữa chúng tôi
khóc cho chiếc áo đẹp lại phải nhuộm thành một
màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con
đường trải toàn thẻ ngà. Ông
chuyển đổi ngành công chức với Chánh Phủ Bảo Hộ
sang ngạch Nam Triều,
nôm na gọi là làm quan.Mẹ tôi không
còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ
và cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được
sắm một con heo đất để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy,
hàng năm đều
phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc "lạc quyên"để may
áo quần cho bọn con
trai trước ngày tựu trường.Cảm thông những nỗi khó
khăn của các anh khi
cần thiết, chúng tôi lúc nào cũng vui
lòng "quyên" .Mẹ tôi bảo đấy cũng
là làm việc nghĩa, chẳng mất đi đâu mà
thiệt, vì mai đây, khi các anh
mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng
tôi.
Khi những
chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai "quá cố "rồi,
bọn con gái
đã thành những cô gái dậy thì.
Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra
đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga
con
trai đã bạc
màu và rộng mênh mông như cả một trời đau
khổ.Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ
may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn,
thiếu gì!Còn tốt và bền lắm, may một lần cho cả
bầy nhiều tiền lắm, chứ
tưởng ít sao!Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một
chiếc áo vải. Còn các con
đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ
không? "Aó vua ban" này, áo xa-tanh
nhuộm màu dưa cải này ...
Tôi nhắc:
-Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn
cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi
gì nữa!
Em Tám nói:
-Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện
hà tặn, sau hết phước đi!
Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên
mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện,
và mồ côi, còn chúng con là con
ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữquát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ
chị Hồng mất
ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của
chúng
con
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô
không cần phải kể con cà con kê ...
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm.Mỗi
thángcô chị họ ấy đến thăm
mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà
náo loạn cả lên. Nội một
việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra.Chị ăn tiêurộng
rãi, thưởng
tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với
chúng tôi, chị cũng"thết
đãi"linh đình.Nghĩa là gọi cả một gánh
bánh bèo hay bún bò vào nhà,
thết mỗi người một tô.Chỉ có một cái "di
hận"là[chị chuyên môn đập
Heocủa chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa
một
ống tiền đặc biệt, tiền
thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc ,
những bài học ông soạn để dành làm của
hồi môn. Nhưng từ khi
chị Hồng phát giác ra câu
chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn
vào tiệm may của chị.Mỗi
tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần.
Mãi cho đến khi chị bán cửa
tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh
toán tiền nong hùn
hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của
chị ở nhằm hướng "tán
tài"nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên
môn thua lỗ.Và cái bản tính
không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ
mãi suốt đời.
Mẹ tôi
quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng "xa xị"màu
vàng nhạt để tận đáy
rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người
lính ở trong dinh biết may
cắtdặn:
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biếtsợ những
chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng
trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử,thật là dở cười dở
khóc. Nó dài phết gót
và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại
được. Người tôi cứ
cứng ra như khúc gỗ không cử độngtrong chiếc áo
đó. Chỉ mấy tháng,
chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và
tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu
xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn
còn hơn chiếc áo vải
ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theochiếc áo
đấu tranh mà có này là một chiếcáo
"vải cạt" . Gặp thời buổi chiến
tranh Pháp Đức, mọi vật dụng đều khan hiếmnên phải
đượcphối
cấp, hàng
vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo
bằng thứ“ vải cạt"phối
cấp hoa lá cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím
vàng loạn xà ngầu,sặc sỡ lòe
loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc
vào trông như một tấm vải
màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi
vẫn phớt tỉnh.Coi như
trên đời này không có ai nhìn thấy
mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về
sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng
tôi nữa, vì chị Hồng
thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ.Trong số y phục
loạn xà
ngầu ấy, có hai cái còn coi được. Chị Sáu
chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc
vừa áo màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều
diện hai cái áo
đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ bạn bè“ khen
ngợi”. Nào là màu sắc
chửi nhau, nào là "người trong tranh " , nào
là bất chấp thời tiết
v.v... Chúng tôi giữ vững lập trường "mục trung vô
nhân" không cần ai
và cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu,
Đông.
Kể từ ngày mẹ
giao tiền chợ cho chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến
gia đình, chị
không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện làm
dáng
nữa. Chị tự sắm rất nhiều
áo quần đẹp, nhưng cứ nói dối là của bạn
bè, bà con ở xa gởi về cho,
thành ra mẹ không la rầy được, mà chúng
tôi cũng không thể phân bì
được. Tôi cầu mong chị cao lớn thêm lên, hay
béo ra một chút, để rơi
rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người
chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi
nhiều, và lòng dạ chị lại khá sắt
đá,nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền
chỉ thích giúp đỡ người khác, dù
người ấy tiêu dùng một cách phí phạm,
còn mình và con cái thì phải hết
sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu:” Người ăn
thì còn, con ăn thì
hết”.Thành ra khi trong nhà món gì ngon
lành là bà đem đi biếu xén tất
cả các nơi bạn bè bà con quen biết . Có lẽ
mẹ tôi muốn cái gì cũng còn
vĩnh viễn nên gặp ai áo rách quần vá
là
bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy
mặc vừa là bà cho một cách sung sướng. Tôi
tin
là mẹ tôi trong cuộc
sống sau khi ba tôi hưu trí,bà không cần
phải dựlễ tiếp tân, hay thết đãi
quan khách với ba tôi thì bà chẳng cần giữ
lại
một chiếc áo nào ra hồn.
Sau
này, lúc đã bị ném ra ngoài đời
tranh
đấu cho cuộc sống của mình ,tôi
vẫn giữ tính nết không ăn diệnđã tập được như thuở
còn sống với mẹ, mặc
dầu lý do nhiều phước hay giảm phuớc tôi không
hềquan
tâm.Thời kỳ làm việc
tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm,
mua gửi
cho mẹ tôi
mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong
mười áo ấy, bà sẽ tha hồ
cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là
chín cái thôi. Ít nhất cũng
phải để lại một cáicho mình. Và được như thế
là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày
mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôiphải xin nghỉ phép về
săn sóc cũng không
quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi.Thế
nhưng lúc mẹ mất, tôi lục
soát tủ áo để tìm đồ liệm theo,
thì không thấy một chiếc áo nào may bằng
thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục
năm. Một người bạn
trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không
còn hy vọng! Không còn tương lai! Không
còn mơ gì được nữa hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất
bại về hôn nhân, tôi về nước
vì Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ
mất, đúng là một thất vọng
lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn
gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ
bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm
việc. Và từ bấy giờ,
dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp,
tôi cũng không còn thấy hứng
thú gì nữa ,không làm sao còn
cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày
xưa,
khi len lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu
tiên, thuở mười
hai.Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi
mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc
lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ
hiểu biết
nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều
này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia
đình, Sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy
muốn báo ân cho kẻ
sinh dưỡng mình, thì cơ hội đã không
còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói
thế, bao giờ cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng
rưng.Còn tôi,
sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng gấm
màu sắc u nhã, dệt Long,
Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người
lên cơn say, cố
mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ
mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
|
|
|
|