NGHĨ GÌ VỀ CUỘC
TRANH LUẬN SÔI NỔI
XUNG QUANH QUYỂN SÁCH TỐ CỘNG
“LE LIVRE NOIR DU COMMUNISME” ?
Lâm
Lễ Trinh
Tác
phẩm "Le Livre Noir
du Communisme, Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng
sản", do nhà sách Robert Laffont, Paris, xuất bản
cuối năm 1997, dày 846 trang, với sự cộng tác
của 11 thức giả, đã đưa công tác nghiên
cứu sử liệu Mạc xít vào hàng best sellers
trên
thế giới vì chỉ trong vòng hai năm, sách
bán hết
200.000 cuốn. Sự thành công ngoài tưởng tượng
này tại Pháp khuyến khích việc phổ biến
toàn
cầu, đặc biệt ở các xứ Đông Âu. Sách
được dịch ra mười sáu thứ tiếng và
một ngày gần đây, thêm lối 15 ngoại ngữ
khác. Cao điểm là Moscou lẫn Đại học Harvard
(Hoa kỳ) có hai ấn bản riêng. Theo báo Le Monde,
tính cho
đến tháng chín năm nay, tổng số 700.000 cuốn
Hắc thư được phát hành. Thành quả này
làm cho
nhóm tác giả chủ trương, kết tụ xung quanh
người cầm đầu Stéphane Courtois, ngẩn
ngơ thích thú.
Tuy
nhiên, cũng theo tờ
báo nói trên đề ngày 20.9.2000, gần
đây dư
luận tỏ ra dè dặt đối với Hắc
thư, đồng thời xét lại tổng quát chế
độ cộng sản. Các sử gia nghiên cứu chủ
thuyết này nêu nhiều câu hỏi: Làm thế
nào một ý
thức hệ từng hứa hẹn “tương lai sáng lạn”
và chủ trường đào tạo “một mẫu
người mới cho nhân loại” lại có thể sinh
sản một chính thể sùng bái cá nhân
và khát máu,
dưới sự chỉ huy đế quốc của
giới cầm quyền Sô- viết? Vì sao “xã hội chủ
nghĩa thực tiễn” lại tàn rụi vì già nua và
không
còn được tin tưởng sau khi áp đảo khá lâu
gần một phần ba địa cầu, dưới
những hình thức địa phương khác nhau?
Trọng
tâm nghiên cứu
của các chuyên gia về Cộng sản gồm những
câu hỏi đại loại như trên. Vấn đề
là các sự phân tích của họ có thể
chuyển từ
chính trị qua lịch sử và từ lý thuyết sang khoa
học hay không?
Về thế giới
CS,
sử liệu thật không thiếu. Từ 1917, rất
nhiều du khách, ký giả và nhà văn viếng
thăm Liên
Sô. Họ ghi lại nhận xét trong những quyển ký
sự loại “le retour d’ URSS.” Những sách này đếm
không hết, bênh vực hay bài xích xã
hội chủ nghĩa.
Sau đó, xuất hiện tác phẩm của những chuyên
gia chống cộng như Victor Serge hay Boris Souvarine, tác
giả của quyển “Staline” xuất bản năm 1935 và
được dân chúng xem như một tài liệu tiên tri.
Kể từ thập niên 60, khối Anglo Saxon bắt đầu
nghiên cứu hiện tượng CS dưới khía cạnh
khoa học. Công tác này tiến hành mạnh sau
khi bức
tường Bá linh và khối quốc gia Đông Âu sụp
đổ, với quyết định mở văn
khố Moscou cho công chúng sưu tầm. Như thế có
phải kỷ nguyên các ức thuyết nhường
chỗ cho thời đại xác tín hay không? Quả là
không!
Tại Pháp cũng như Hoa kỳ, các trường phái
sử gia đối đầu với nhau, tranh luận sôi
nổi về quan niệm “xã hội chủ nghĩa, hoài bão
hay nỗi thất vọng của thiên niên kỷ? ”
Sau khi ra
mắt đọc
giả, Hắc thư bị dị nghị từ ba phía:
Trước hết, một số đồng tác giả
của quyển sách này tuyên bố rút khỏi bộ
biên
tập vì cho rằng Stéphane Coutois tỏ ra “quá
khích” khi
đề nghị trong trang giới thiệu sách truy tố
các “tội ác CS” trước một Tòa án quốc tế
loại Nuremberg do các nước Đồng Minh lập ra
năm 1945 để xử các tội ác của Đức
quốc xã. Tưởng cần nhắc lại rằng
điều 60, khoản a, b, và c của quy chế Tòa này
định nghĩa và phân tách ba loại tội phạm:
chống hòa bình, tội ác chiến tranh và tội
ác
chống nhân lọai.
Mặt
khác, tạp chí
Communisme tại Pháp trong hai số liên tiếp, 59 và
60,
xuất bản cuối năm 1999, đăng bài đả
kích Courtois. Chính Stéphane Courtois trước
đây đã
đứng tên chung với Annie Kriegel thành lập năm 1982
tạp chí Communisme. Annie Kriegel là người tiên
phong hô hào
viết ra lịch sử khoa học của chủ
thuyết CS. Denis Pechanski, một trong cộng tác viên
đầu tiên, viết: “Tạp chí kết hợp xung quanh
Annie Kriegel những nhà nghiên cứu trẻ nhắm chung
mục tiêu coi chủ nghĩa CS như một đối
tượng khoa học để phân tích theo những
phương thức bổ túc hay dị biệt. Đây là
một đề án trí tuệ điển hình xoay quanh ý
niệm rằng hiện tượng cộng sản có hai kích
thước: chủ đích (téléologique) và xã
hội
(sociétale). Nhóm khởi sự tan hàng rã ngũ
khi xảy ra
vụ khui lại lịch sử cảnh sát của
Đảng CS Pháp và có dư luận tố giác Jean
Moulin- là
gián điệp của Nga. Việc giải mật văn
khố Mạc Tư Khoa năm 1991 xác nhận thêm khuynh
hướng này.”
Sau hết, một
nhóm tác
giả khác, gốc Anh- Pháp, cho xuất bản “Le Siècle
des
Communismes - Thời đại các thể chế cộng
sản”. Claude Pennetier, một trong đồng tác giả,
viết: “Chủ trương của chúng tôi là chống
lại “cái lối nhìn cảnh sát” của lịch sử. Le
Livre Noir không giúp hiểu hết hoạt động của
thể chế Stalinien. Tư tưởng chủ yếu
của chúng tôi là cộng sản chủ nghĩa có một
bản chất phức tạp, nó không chỉ là nguồn
gốc của tội ác.” Những người cha
đẻ của “Le Siècle des Communismes” xếp quyển sách
này vào loại nghiên cứu chủ nghĩa cộng sản
đa dạng dưới khía cạnh khoa học. Họ
đặt lại hiện tượng cộng sản vào
trung tâm các vụ đấu tranh giải phóng của
thế kỷ 20 và không chú trọng đến vai trò của
lý thuyết mạc xít trong những tội ác cộng
sản .
Tại Hoa kỳ,
giới
Đại học cũng chia thành hai trường phái. Nhóm
đầu mang tên “totalitariste, chuyên chế ” vì đề cao
vai trò Đảng - Nhà nước ở Liên bang Sô viết.
Nhóm sau, mệnh danh “révisionniste, xét lại”, cho
rằng không
thể xem thường sức nặng của xã hội.
Nhóm này đông hơn và phủ nhận số nạn
nhân
trong trại giam goulag. Tại Mỹ, cuộc tranh luận
chính trị giữa hai cánh tả và hữu thu hẹp trong
giới đại học. Ở Pháp, Đảng CS có
đại diện trong chính phủ. Tại đây, hiện
vẫn có những con đường mang tên Lénine và
một
nhà ga métro Stalingrad. Bởi thế cuộc tranh luận gay
gắt hơn và vượt ra khỏi ranh Đại
học để lan ra đến bên ngoài xã hội.
Sau khi in
xong “Le Siècle des
Communismes”, ấn quán L’Atelier cho phát hành tiếp
năm 1971
“Tự điển lý lịch của Phong trào thợ
thuyền” gồm có 46 quyển. Bộ sách này, dưới
tên Maitron, sẽ được bổ túc năm 2001 bởi
việc xuất bản Tự điển khối Komintern
ghi lại lý lịch của 400 đoàn viên thuộc Tổ
chức CS Quốc tế tại Pháp, Thụy sĩ, Bỉ
và Luxemburg.
o0o
Nói
tóm tắt, trong nội
vụ, có hai quan điểm đối chọi: Nên phân tích
Cộng sản chủ nghĩa theo đường lối
thuần túy khoa học (analyse scientifique) hay dưới khía
cạnh tội ác (vision policière)?
Nghĩ sao về
cuộc
tranh luận trên đây?
Hiểu theo cho
đúng
nghĩa, viết sử là một công tác khoa học đòi
hỏi một căn bản huấn luyện vững
chắc, nhiều kiến thức sâu rộng và đặc
biệt, một trí xét đoán sắc bén và sự
chính
trực trí tuệ. Không thể đem tâm tình
riêng tư hay
dựa vào kỷ niệm vớ vẫn để viết
sử. Không thể lợi dụng viết sử
để bôi nhọ hay xuyên tạc. Một bộ sử xứng
đáng với danh xưng không bắt buộc, tuy nhiên,
phải là một tác phẩm thuần túy khảo cứu
chuyên môn mà còn có thể, đồng
lúc, là một công trình
tư tưởng bất hủ và một áng văn
chương tuyệt tác lưu danh hậu thế. Chỉ
xin kể vài sử gia điển hình: Tacite, người
viết Les Annales thời La Mã, Thucydide là người
trước tác quyển “Lịch sử cuộc chiến
Péloponnèse” thời Hy lạp và Arnold Toynbee,
tác giả bộ
sách Study of History. Đa số sử gia, khi bắt tay vào
việc, đều nhắm một hay nhiều chủ
đích. Điều này không có gì bất
chính miễn chủ
đích tôn trọng sự thật, có tính cách
xây dựng và
không làm lệch lạc việc sưu tra và trình
bày sử
liệu.
Trong trường
hợp
“Le Livre Noir du Communisme”, ít nửa 6 trong 11 tác giả
trụ
cốt là những chuyên viên sử học. Chủ
trương của nhóm, được in minh thị trên
bìa sách, là trình bày “Tội
ác, Khủng bố, Đàn áp.
Crimes, Terreur, Répression” của Cộng sản. Lần
đầu tiên, hậu quả tai hại của xã hội
chủ nghĩa được trình bày khá rộng và chi
tiết, tuy chưa nói hết. Phần lớn các tài
liệu trong sách do văn khố giải mật của Liên
Sô và các chư hầu cung cấp, mặt khác
rút từ kinh
nghiệm bản thân của các tác giả, nguyên
là nạn
nhân hay cựu đảng viên CS. Những con số liệt
kê trong Hắc Thư làm cho đọc giả kinh hoàng
nhưng không phải giả tưởng: Liên Sô có 20
triệu người chết, Trung Hoa 65 triệu, Việt
Nam 1 triệu, Bắc Hàn 2 triệu, Căm Bốt 2
triệu, Đông Âu 1 triệu, Châu Mỹ La tinh 150.000
người, Afghanistan 1,5 triệu... Tổng cộng
một trăm triệu, trong khi Đức Quốc Xã sát
hại 25 triệu.
Dư luận thế
giới đến nay vẫn không quên sự chấn
động toàn vũ khí Nikita Krouchtchev, Tổng bí thơ
Cộng Đảng Số Viết, lớn tiếng tố
cáo, ngày 22.2.1956 tại Đại hội thứ 20 của
đảng, chính sách khai trừ và tàn sát
vô nhân của trùm
Staline từ 1917, trong ba chục năm cầm quyền.
Chính các đảng viên CS có mặt trong
phiên nhóm thu hẹp
cũng phải sửng sốt khi nghe “phúc trình mật”
của Krouchtchev. Lý do thúc “Mr K” phá vỡ một
trong cấm
kỵ lớn của chế độ là đẩy các
tội ác qua cho chúa tể (quá cố) Staline để
cứu chính thể. Đồng thời, cũng để
triệt hạ cánh đối lập Stalinien. Một nguyên
nhân thầm kín khác là Krouchtchev lợi dụng
cơ hội
để khỏa lấp những hành vi tàn bạo của
chính y khi nắm quyền tại Ukraine. Trong hồi ký
“Souvenirs”, trang 329, Krouchtchev viết như sau: “Lúc đó
là
giai đoạn áp đảo và chuyên quyền trong
Đảng và chúng ta cần báo cho Đại hội
những gì chúng ta biết. Trong cuộc sống của
bất cứ ai phạm tội ác, thú nhận thì đáng
được khoan dung , nếu không được toàn xá
“ (!!)
Trong vụ
tranh luận
về “Le Livre Noir”, điều gây ngạc nhiên là một
số tác giả đợi sách này phát hành
xong mới tuyên
bố rút lui vì cho rằng lập trường của
người cầm đầu Stéphane Courtois có tính
cách “quá
đáng.” Tại sao không phản đối ngay khi S. Courtois
ghi đề nghị này trong trang giới thiệu sách?
Sự “phản thùng” của họ liên hệ ra sao với
áp lực hay ảnh hưởng của cánh tự xưng
cấp tiến hay thiên tả trong giới Đại
học và Truyền thông Âu châu và Hoa kỳ?
Dân
chúng không lạ gì hành
động xu thời của số người mang
lốt thức giả. Gió thổi hướng nào, xoay theo
chiều ấy. Trên 80 năm, CS thống trị bằng
sắt máu một phần địa cầu chỉ vì
Thế giới Tự do ngây thơ và khiếp nhược.
Không thể nhân danh Khoa học và Chính trị để
nhắm mắt bỏ qua những vi phạm bỉ ổi
Nhân Quyền do các lãnh tụ CS đương quyền hay
bị bãi nhiệm chủ trương.
Ngày
28 tháng 8 vừa qua,
bốn nhà ly khai lưu vong Trung quốc, từng tham gia
biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường
Thiên An Môn năm 1989, khởi tố trước Tòa hình
Nữu ước nguyên Thủ tướng -
đương kim Chủ tịch Quốc hội Trung Hoa Lý
Bằng về vụ ra lệnh dùng súng đạn đàn áp
quần chúng. Tòa án đã xuất trát
đòi bị can trình
diện. Bắc kinh cho việc này là một trò hề
chính
trị. Nhưng các tổ chức đấu tranh cho nhân
quyền thì xem đây là một sự cảnh cáo cần
có
đối với bất cứ ai, cộng sản hay không
cộng sản, học đòi đường lối
độc tài chuyên chế.
Lịch sử
luôn luôn dành
cho hậu thế những khuyến cáo và bài học quý
giá.
Sự tồn tại của thế giới tùy thuộc
khả năng cảnh giác để tránh tái phạm
lỗi lầm quá khứ. Ngoài Công lý của
loài
người, còn luật “nhãn tiền quả báo” của
Trời Đất. Pol Pot tại Cam bốt và Milosevic
tại Nam Tư là hai trong nhiều bằng chứng
điển hình.
Lương tri con
người nguyền rủa cộng sản bất nhân
từ lâu. Thời gian không thể xóa sạch trên
thân xác các
nạn nhân và – càng khó hơn - trong tâm
khảm dân tộc tàn
tích của vô số tội ác do CS gây ra. Đặc
biệt, tội diệt chủng và hành vi chống văn
minh, phản nhân loại. Các kẻ phạm pháp, vì
thế
phải đền tội trước Tòa án Quốc tế
để làm gương cho những ai lạm dụng
quyền lực để sát sinh và chà đạp nhân
phẩm. Nhà văn Tzvetan Todorov đã nhận định chí
lý: “Sự sống đã chịu thua cái chết. Nhưng
trí
nhớ tất thắng khi đấu tranh chống hư
vô.”
i Ðọc “Le
Communisme, entre
analyse scientifique et vision policière de l’ histoire” trong
Le Monde ngày
20.9.2000
ii MOULIN
(Jean), anh hùng kháng
chiến Pháp trong Đệ nhị thế chiến. Tẩu
thoát qua Luân đôn, ông được bầu năm 1943
Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng
Quốc gia Kháng chiến. Trở về Pháp, ông bị
bội phản và cơ quan tình báo Đức Gestapo,
tháng
6.1943 bắt, đem ra xử bắn. Năm 1964, Chính
phủ Pháp đưa tro của ông vào Viện Panthéon.