SĨ
PHU THỜI XƯA VÀ KẺ SĨ NGÀY NAY
CUỘC
KHỦNG HOẢNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM
Lâm
Lễ Trinh
LTS: Dưới
đây là bài nói chuyện ngày 25.8.2002,
có ghi âm, của
Luật sư Lâm Lễ Trinh, Chủ bút tạp chí
Anh-Pháp
Human Rights / Droits de l’Homme, theo lời mời của Viện
Việt Học, Institute of Vietnamese Studies, tại 15355
Brookhurst Street, Westminster, Orange County, Californie.
Thưa
Quý vị,
Thưa
các thân
hữu,
Tôi
thành thật cám ơn ông Viện trưởng Nguyễn
Khắc Hoạch về những lời giới thiệu và
đa tạ Viện Việt Học đã dành cho tôi cơ
hội đến đây chia xẻ với các bạn, trong
một bầu không khí gia đình, vài ý
kiến thô thiển
về một đề tài nóng bỏng trong hiện tình của
Đất nước: “Cuộc khủng hoảng của
Trí thức Việt Nam.” Đề tài này nung nấu từ
lâu trong tâm tư của chúng ta nên cần được
phân tích một cách cởi mở và không mặc
cãm.
Vì
còn phải dành thời giờ cho cuộc thão luận sau
phần trình bày này nên tôi xin đi
thẳng vào câu chuyện
được chia thành ba phần chính:
I
– Định nghĩa Trí thức, Khoa bảng, Chuyên viên
và
Sĩ phu.
Dịch
từ chữ intellectuel trong từ điển Pháp. “Trí
thức” là “người quan tâm đến công việc não
bộ vì thị hiếu hay vì nghề nghiệp”. Theo
học giả Trung quốc Hồ Thu Nguyên thì “trí thức
là người hiểu trước, biết trước
(tiên tri, tiên giác) rồi đem sự học hỏi của
mình công hiến cho tiến bộ nhân loại, xã hội
và
dân tộc.” Hy lạp cổ xưa dùng danh từ
triết gia (philosopher) hay ngụy biện gia(sophist) trong khi
La Mã thì gọi trí thức là nhà tư
tưởng (idéologue).
Trung hoa còn áp dụng cho trí thức nhiều danh xưng
khác
như Nho, Sĩ, Thánh, Hiền, Văn nhân hay “Độc
thư nhân” (người đọc sách).
Phác
họa một hình dạng rõ rệt cho con người trí
thức phức tạp hơn việc định nghĩa.
Có cấp bằng hay tự học (autodidacte) đều có
thể được coi là trí thức. Trong sử sách,
nhiều bậc Thầy không có bằng cấp chi hết.
Mặt khác, người trí thức không bị buộc
phải thuộc giai cấp, tuổi tác hay phái tính
nào, có
mức sống ra sao hay làm nghề nghiệp gì. Tại các
nước chậm tiến, tùy trình độ địa
phương, những phần tử, với sức
học bổ túc, vẫn được tôn xưng là trí thức.
Chữ
“intellectuel” không tìm thấy trong tự điển Larousse
1866-1878 hay Đại Bách khoa 1885-1902. Trong quyển Vocabulaire
Philosophique của Lalande chỉ thấy ghi intellectualisme mà
thôi. Năm 1906, một số chính trị gia và văn
nhân
tại Pháp gồm có Léon Blum, Émile Zola,
Anatole France, Daniel
Halévy… ký chung một đơn khiếu nại đòi
phục hồi danh dự cho cựu Đại úy gốc Do
thái Dreyfus bị kết án sai. Thủ tướng George
Clémenceau gọi văn kiện này “Bản tuyên ngôn
của
các người trí thức - Le Manifeste des Intellectuels ”.
Kể từ đó, danh từ intellectuel trở nên thông
dụng.
Dù
sao, vấn đề trí thức vẫn có từ ngàn xưa
nhưng luôn luôn gắn liền và biến đổi
với lịch sử. Đúng vậy, dân tộc nào cũng
có tạo ra một mẫu người lý tưởng,
dưới danh xưng khác nhau và do bản tính hay
hoàn
cảnh địa lý hun đúc nên. Ví dụ: Quân
tử
ở bên Tàu, Chính nhân L’honnête homme ở
Pháp, Võ sĩ Samourai
ở Nhựt, nhà thánh thiện Mahatma ở Ấn Ðộ,
Người thanh lịch Gentleman tại Anh quốc, Siêu nhân
Superman ở Đức, Hiệp sĩ Chevalier ở La Mã,
nhà Hiền triết hay Le Sage ở Hy Lạp, người
cán bộ Apparatchik ở Nga, nhà Kinh tài Businessman
ở
Mỹ… Còn đối với dân tộc ta, mẫu
người lý tưởng thường được
gọi là Trai Anh Hùng, Gái Hào Kiệt.
Người
trí thức Việt Nam, theo quan niệm cổ truyền,
cần có căn bản học thức vững, không
ngừng học hỏi và xử thế theo đạo lý,
nghĩa là sáng suốt phân biệt đúng sai
và phải trái.
Yếu tố “tác phong” được xếp vào hàng đầu
trong xã hội VN vốn trọng đạo đức.
Người trí thức chính danh không trung lập
trước cái thiện và cái ác. Không
khiếp nhược
nín lặng khi phải lên tiếng phản đối vì nín
lặng cũng là một ý kiến, một thái độ.
Thái độ của kẻ hèn. Khoa bảng hay chuyên gia, với
túi đầy bằng cấp, mà bất xứng thì không
được xem là người trí thức. Danh từ cao
quý “trí thức” lắm khi bị bôi bẩn bởi những
người ngụy trí thức, trí thức thời cơ,
trí thức tháp ngà, trí thức yếm thế,
trí thức
trưởng giả xa-lông.
Sĩ
phu ở một cấp cao hơn trí thức trong lòng quý
mến và kính nể của quần chúng vì họ dấn
thân cho đại nghĩa, không màng lợi danh và
luôn luôn gắn
liền sinh mệnh cá nhân với sự tồn vong của
Đất nước. Sự khác biệt giữa khoa
bảng, chuyên gia, trí thức và sĩ phu là sĩ
phu
chẳng những có học vấn căn bản (schooling)
và giáo dục bản thân (education) - như ba
nhóm kể
đầu - mà còn có thêm quyết tâm sống
chết cho chính
nghĩa quốc gia (nationalist engagement / nationalist dedication),
Tại triều đình, thời vua chúa, kẻ sĩ
đứng hàng thứ năm sau các tước: khanh,
tướng, thượng đại phu và hạ
đại phu nhưng trong dân gian, kẻ sĩ
được xếp hạng trên ba giới nông, công và
thương.
Theo
khoa bói toán cổ xưa, phần tử trí thức có
giỏi vẫn thua người số tốt, vận
tốt, mồ mả tốt và âm đức tốt
(Nhất mệnh, Nhị vận, Tam phong thủy, Tứ âm
công, Ngũ độc thư). Kẻ sĩ không để
cho sự mê tín lung lạc. Cuộc đời như
một mảnh lụa đào trinh bạch. Con người
là nghệ sĩ, vẽ tùy thích nhưng phải gánh
trọn
trách nhiệm về bức họa do mình tạo ra.
Khi
thầy Tử Lộ hỏi thế nào là kẻ sĩ,
Khổng Tử đáp: "Trước hết, phải
có biết xấu hổ khi làm điều quấy. Thứ
đến, hiếu thảo với mẹ cha và chung
thủy với bạn bè. Sau cùng, kết hợp tư duy và
hành động, sự biết và cách sống".
Đức Khổng còn vẽ ra một road map bốn giai
đoạn cho kẻ sĩ noi theo: tu thân, tề gia, trị
quốc và bình thiên hạ (tức rèn luyện bản
thân,
quản trị tốt gia đình, ổn định xứ
sở và phục vụ thế gian). Trong xã hội dân
sự văn minh ngày nay kết hợp chính trị, văn
hóa, kỹ thuật và kinh tế một cách phức tạp,
cái lộ trình cổ điển vừa nói còn giữ
nguyên
giá trị.
II
– Những giai đoạn kế tiếp đưa trí
thức VN vào khủng hoảng
A
– Thời mất chủ quyền .
Trong
chiều dài lịch sử, văn hóa và tư tưởng
Việt Nam tiếp nhận sâu đậm ảnh
hưởng của ngoại bang. Điều này dễ
hiểu vì, về địa lý chính trị, nước ta
nằm ở ngã tư nhiều nền văn minh Á Châu và
mặt khác, từng bị Trung Hoa và Pháp đô hộ
khá lâu.
Tuy nhiên, sự tiếp nhận vừa nói không thụ
động và không máy móc. Dân tộc Việt
luôn luôn cố
gắng cải biến, mô phỏng, sáng tạo và
vươn ra ngoài khuôn khổ kềm tỏa của các
đế quốc thống trị.
Trong
số cự tướng của nền văn hóa quốc
gia thuộc giai đoạn này, Nguyễn Công Trứ tiêu biểu
xứng đáng mẫu sĩ phu lý tưởng Việt Nam
vào đầu thế kỷ XIX. Đúng vậy, ông là
người đầu tiên diễn đạt rõ ràng quan
niệm nhân sinh của kẻ sĩ trong một bài hát
nói
gồm 31 câu bất hủ và ông cũng là tác
giả của
bản điều trần Thái bình Thập sách đề
nghị năm 1813 lên vua Gia Long mười biện pháp
bảo quốc an dân. Với khả năng đa dạng,
tinh thần bách nghệ, bản sắc anh hùng, tác phong
tài
tử, phong thái hàn nho và trên hết, một
hoài bão sắt
đá phục vụ dân và nước, Nguyễn Công Trứ
đã vượt qua mọi trở ngại dựng lên bởi
cái học Tống nho từ chương và hình thức
của đời Lê. Không kiêu khi đắc thắng, không
nản lúc sa cơ, ông bình thản trong mọi bối
cảnh: hàn vi, xuất chính hay ẩn dật, và thực
hiện được gầân như tuyệt hảo tri
và hành, viết và sống.
Đặc
điểm khác là khi xây dựng mô hình kẻ
sĩ VN
dưới nhiều ảnh hưởng Đông
phương như thuyết chính khí của Chu Hy, chủ
trương “danh thành thân thoái” của Lão Tử,
tinh thần
tùy thời, tự cường của Dịch Lý và
đường hướng thực dụng của phái
Minh Nho, Nguyễn Công Trứ – trong cương vị văn
hào hay danh tướng - luôn luôn tỏ ra là một
mẫu
người mang nặng dân tộc tính Việt Nam: phóng
khoáng, lãng mạn, yêu đời và tiến bộ.
B
– Thời kháng Pháp (1858-1945)
Trong
giai đoạn này, các phong trào Cần Vương, Văn
Thân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,
Quang
Phục..v..v.. nở rộ để chống thực dân.
Bằng võ trang, ngoại giao và văn hóa.
Về
quân sự, nhiều anh hùng đã khí phách
nêu gương
tử tiết: Nguyễn Tri Phương (nhịn đói
đến chết), Hoàng Diệu (tự thắt cổ),
Trần Bích San (nuốt giấy tự vẫn), Nguyễn Cao
(rạch bụng), Phạm Hồng Thái (mang bom trong mình).
Về
đối ngoại, sứ thần Phan Thanh Giản đã
tuẫn tiết khi thất bại điều đình
với Pháp lấy lại 3 tỉnh miền Tây Nam phần;
Nguyễn Trường Tộ kiên nhẫn gởi cho
đến chết điều trần lên vua xin cải
cách; Bùi Viện qua Mỹ năm 1873 và 1875 gặp Tổng
Thống Ulysse S.Grant để cầu cứu chống Pháp;
Nguyễn Tư Giản sang Trung hoa và Đức quốc xin
giúp đỡ.
Khi
thấy thế địch quá mạnh không thể giải
quyết bằng quân sự, giới sĩ phu thay
đổi chiến lược, gia nhập khuynh
hướng “Tân trào” và chấm dứt việc bất
hợp tác để tìm hình thức và phương tiện
chống đối khác. Thời kỳ này, đế
quốc Pháp đưa vào Việt nam khoa học kỹ
thuật, những tiện nghi vật chất, tư
tưởng mới của Tây phương và tiếng
Quốc ngữ.
Văn
hóa và Giáo dục trở nên hai khí cụ
và mục tiêu
đấu tranh hệ trọng để hun đúc dân trí.
Nhiều văn nhân như Nguyễn Văn Vĩnh,
Trương Vĩnh Ký, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ
Mục... dốc hết tâm trí vào công tác
truyền bá Tây
học trong khi những sĩ phu khác chủ trương xây
dựng nền tảng Việt văn trong nhiều lãnh
vực: báo chí và nghiên cứu (Phạm Quỳnh với
tạp chí Nam Phong), biên khảo học thuật tư
tưởng Á Đông (Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn
Trọng Thuật, Lê Dư…), cổ văn và sử
nước nhà (Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn
Trọng Thuật...), sách giáo khoa (Phạm Thế Ngữ,
Trần Trọng Kim,...), thi phú (Á Nam Trần Tuấn
Khải, Tương Phố, Đông Hồ Lâm Tấn
Phát...)
Năm
1925 đánh dấu một khúc quanh chính trị tại
Việt Nam. Đảng Xã hội Cấp tiến của
Edouard. Herriot nắm quyền tại Pháp cho phép Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh trở về nước. Phan Bội
Châu
là lãnh tụ của Việt Nam Quang Phục (hội kín),
tác
giả hai lời kêu gọi quốc dân danh tiếng Lưu
Cầu Huyết Lệ (1904) và Hải Ngoại Huyết
thư (1906) cổ võ “tôn quân, thảo tặc”, tức
đưa Kỳ Ngoại Hầu Cường Để lên
làm vua, giết giặc Pháp, đồng thời đẩy
mạnh Phong trào Đông Du để đào tạo cán
bộ và cầu viện. Phan Châu Trinh là người đã
từng viết thơ kết tội bảy điều
vua Khải Định (1922), lãnh đạo Phong trào Duy Tân,
và vận động “tôn dân, đồ vua” tức quý
dân,
thí vua, bằng cách dựa vào Pháp để lập nền
dân
chủ và thực hiện tiến bộ.
Vào
thời ấy, tại VN có bốn xu hướng chính
trị hệ trọng: 1- Quân chủ Lập hiến,
chủ trương bạo động, của Phan Bội
Châu, ủng hộ Cường Để. 2- Quân chủ
Lập hiến, ôn hòa, của Phạm Quỳnh, dựa vào
Nam triều, quan trường và chính phủ thuộc
địa, ủng hộ Bảo Đại. 3- Cộng hòa
Dân chủ của Phan Châu Trinh, với chương trình
“hậu dân sinh, chấn dân khí, khai dân
trí” và 4- Trực
trị của Nguyễn Văn Vĩnh, chủ trương
dẹp Nam triều, dựa vào Pháp và nhóm
trí thức Âu hóa.
C
– Thời các Chính phủ Quốc gia tại Miền Nam VN
(1954-1975)
Để
chống lại duy vật biện chứng Các Mác, ông Ngô
Đình Nhu, cố vấn của Tổng thống Ngô
Đình Diệm, trang bị tinh thần miền Nam với
hệ thống tư tưởng Nhân vị - Personnalisme,
một học thuyết công giáo cấp tiến, đại
diện bởi triết gia Emmanuel Mounier, linh mục Lebret,
học giả Jacques Maritain… và phát xuất tại Pháp
từ 1908 dưới danh xưng Volontarisme, Humanisme… Ngày
2.9.1954, đảng Cần Lao ra đời, chủ
trương cải tổ xã hội theo mô hình “nhân vị,
cộng đồng, đồng tiến”. Theo Chính
cương của Cần Lao, Đảng và Xã hội là
phương tiện để phụng sự con
người, chính con người mới là cứu cánh.
Trong
quyển hồi ký “Nhân chứng một chế độ”,
tập ba, phát hành năm ngoái, nơi trang 208-220,
tác giả
Huỳnh Văn Lang, nguyên Bí thư Liên kỳ bộ Nam
Bắc Việt Cần Lao, kể lại những tranh
chấp nội bộ của tổ chức này về
quyền hành và trách nhiệm vì thiếu sự
lãnh
đạo sít sao từ trung ương đến
địa phương. Cái sai lầm quan trọng nhất
là đưa đảng phái vào Quân đội, làm
tan rã
kỷ luật đặt trên hệ thống quân giai. Cuối
năm 1957, Liên kỳ bộ bị giải tán. Đảng
Cần Lao gây tai tiếng. Một số tướng lãnh
gốc Cần Lao đã bắt tay với Hoa Kỳ lật
đổ Đệ nhất Cộng hòa và hạ sát anh em
Tổng thống Diệm ngày 2.11.1963.
“Đảng
kaki” (để dùng ngôn từ của tướng Nguyễn
Cao Kỳ) khai sinh Đệ nhị Cộng hòa trong tình
trạng hỗn loạn với những vụ đảo
chính, chỉnh lý nội bộ liên miên cho đến khi
TT
Nguyễn Văn Thiệu thật sự tóm thu mọi
quyền bính trong tay. Tại Bắc Việt, đảng CS
chỉ huy Quân đội. Tại miền Nam, Thiệu
chỉ huy Quân đội lẫn đảng Dân chủ,
một tổ chức hữu danh vô thực do Thiệu
lập ra để tái ứng cử. Quân đội không có
tính chất đảng nên chống cộng trên chiến
trường mà bỏ ngõ đấu tranh chính trị.
Chế độ quân phiệt không chấp nhận sự
phê bình của giới trí thức. Trí thức
hoàn toàn
bất lực. Vận mạng của Miền Nam do một
tay TT Thiệu quyết định năm 1975 trong vụ rút
quân khỏi Cao Nguyên và miền Trung.
D
–Cộng sản nắm quyền sau Hiệp ước
Genève (1954) và Hiệp định Paris (1973)
Sau
khi đất nước chia đôi, CS hưởng một
số lợi thế: Bắc Việt thuần nhất
hơn miền Nam về chính trị, không chia rẽ nội
bộ, đảng kiểm soát chặt quần chúng, Nga Tàu
và khối xã hội chủ nghĩa ủng hộ hết
mình Hà Nội, đặc biệt Đảng có kinh
nghiệm lãnh đạo và chiến đấu, với hai
mục tiêu rõ rệt: chống thực dân và căm
thù giai
cấp. CS đã mượn danh nghĩa dân tộc
để tiêu diệt đối lập chính trị
gồm có 2/3 giới trí thức Bắc Việt (xử
tử, lưu đày, tẩy não..), các đảng phái
quốc gia rời rạc và đặc biệt, nhóm
Trotskyist Đệ tứ quốc tế (Tạ Thu Thâu, Phan
Văn Hùm, Trẩn Văn Thạch.., phần đông gốc
miền Nam) mà chúng xem như những đối thủ
nặng ký nhất.
Việt
Nam thống nhất năm 1975. Tuy xính vín với sự
sụp đổ của Nga Sô và khối chư hầu
Đông Âu, CSVN tuyên bố vẫn trung thành với
xã hội
chủ nghĩa, mặt khác cố gắng tồn tại
bằng cách “đổi mới” kinh tế và mở rộng
đối ngoại. CS ngày nay bị đặt
trước một sự chọn lựa: “Theo Mỹ thì rã
Đảng, theo Tàu thì mất Đất”. Đúng vậy,
nếu áp dụng thẳng thừng bản Hiệp
thương ký năm ngoái với Hoa Kỳ thì phải
chấp nhận pháp trị, quyền tư hữu, các
tự do căn bản và sau đó, đa nguyên, tức là
đảng sẽ tiêu ma. Còn muốn giữ đặc
quyền thì chỉ còn có cách tùng phục
Bắc Kinh,
hiến đất và dâng biển. Hà Nội đã u mê
chọn giải pháp thứ hai.
III
– Cuộc khủng hoảng hiện tại của trí
thức Việt Nam
Tổng
dân số VN nay vượt đến gần 80 triệu,
trong đó trên ba triệu đi tìm tự do tại trên
70
quốc gia, 60% hiện sinh sống ở Hoa Kỳ. CS đã
thực hiện một cuộc biến động
lịch sử vô tiền khoáng hậu, thay bậc
đổi ngôi trong xã hội và xáo trộn mọi ức
đoán.
Trời
làm một trận lăng nhăng
Ông
xuống làm thằng, thằng lại lên ông.
Trong
bài “Đôi điều suy nghĩ của một công dân”,
Hà
Sĩ Phu chán ngán nhận xét: “Dân tộc phải
đương đầu với một cuộc tổng
khủng hoảng nhân cách. Xã hội đang lộn
ngược do thang giá trị bị lộn ngược. Chủ
nghĩa vô hồn tạo ra một khoảng trống ghê
rợn. Về văn hóa, lý tưởng và nhân
cách”.
Công
bằng mà nói, yếu tố CS chỉ làm trầm trọng
thêm một tình trạng suy đồi tích lũy từ lâu.
Xã hội VN đã tiếp nhận nhiều ảnh
hưởng tiêu cực trước và sau cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa:
1
– Qua một ngàn năm đô hộ, đế quốc Trung
hoa đã thành công đào tạo tại VN một lực
lượng hũ nho bạc nhược, phản
động và thoái hóa, với lối học cử
nghiệp, thiếu óc sáng tạo. Lớp người này
quan niệm vũ trụ, nhân sinh và luân lý một
cách
hẹp hòi và kém khoa học.
2
- Tiếp theo, dưới chế độ thuộc
địa kéo dài một thế kỷ, thực dân Pháp
cũng huấn luyện được – như cụ
Huỳnh Thúc Kháng đã viết trong bài tựa
“Phan Tây
Hồ Lịch sử “ – “một bọn Âu học
đầu lưỡi, cũ không ra cũ, mới chẳng
ra mới, giơ gạc vênh sừng, chia nhà cắt ngõ,
chống chỏi nhau mà không sao hiệp lại làm một
được”.
3
– Sự hấp thụ quá độ hay sai lầm các trào
lưu, tư tưởng “cấp tiến” Tây phương
cũng gây tỗn hại không ít. Tuy có phần
nào suy yếu
sau 1954, văn hóa Pháp vẫn còn ảnh hưởng mạnh
giới trí thức Việt, ít nữa cho đến 1975.
Mặc dù Hoa Kỳ can thiệp vào VN bằng quân sự
trên
hai chục năm , văn hóa Mỹ không đâm chồi
mọc rễ sâu trên đất nước chúng ta vì
những dị biệt tâm lý và truyền thống.
Thập
niên 60-70, triết học phương Tây phát triển
mạnh ở miền Nam. Triết lý hiện sinh của
Jean Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Merleau Ponty, lý thuyết
phi lý
(théorie de l’absurde) của Albert Camus, trường phái cấu
trúc (structuralisme) với R Barthes, Lévi-Strauss,
trào lưu nhân
vị (personnalisme) của Emmanuel Mounier... đã lưu
lại những dấu vết sâu đậm trên tâm
khảm của cả một thế hệ nhà văn và
học giả Việt. Các tư trào đó không dễ
tiêu
hóa, lắm khi trở thành mode thời thượâng và
ảnh hưởng tiêu cực tới sinh viên, trí thức
và lan qua văn nghệ. Hảy đọc lại những
trang tiểu thuyết của nhóm Sáng Tạo ướt
đẫm rượu hiện sinh với những nhân
vật sống vật vờ, không lý tưởng tại
các phố phường, sàn nhảy, phòng trà một
cuộc
đời trừu tượng, vô nghĩa và bế
tắc.
4
– Với Chiến tranh bấp bênh và dai dẳng, xuất
hiện một thế hệ sống trác táng và thác
loạn. CS Bắc-Việt thừa cơ xâm nhập
giới viết văn, làm báo và sáng tác
âm nhạc tại
Miền Nam, tạo ra phong trào phản chiến, ngụy hòa,
ủy mị, ru ngủ quần chúng với “tiếng sáo
Trương Lương.” Chính phủ quân nhân
đương nhiệm không có đủ bản lãnh và kinh
nghiệm để chận đứng chiến dịch
tuyên truyền-phá hoại agit-prop này của địch.
Thêm
vào đó, sự hiện diện của Quân đội
Mỹ và Đồng minh nuôi sống vô số hộp
đêm, khuyến khích nạn mãi dâm và
buôn lậu. Xã hội
miền Nam là một con bệnh nặng, về thể
chất lẫn tinh thần, trước ngày sụp
đổ toàn diện.
5
– Mao Trạch Đông từng tuyên bố: “Trí thức
không
giác ngộ chủ nghĩa Mác Lê thì giá trị
kém hơn
cục phân”. Theo gót đàn anh, CSVN triệt hạ tư
tưởng trưởng giả và chống đối
trong giới trí thức VN qua nhiều chiến dịch:
1946-1954, để tẩy sạch ảnh hưởng
văn hóa Pháp duy tâm, lãng mạn, nghệ thuật
vì nghệ
thuật; 1954-1956, dưới hình thức Cải cách
ruộng đất; 1956-1960, để đánh trí thức
và văn nghệ sĩ tiểu tư sản; 1986-1989 trong
vụ gài bẫy văn hóa Trăm Hoa Đua Nở. Vừa
thống nhất, năm 1975, VN trở nên một trại
goulag khổng lồ, sôi sục hận thù, nghiền nát
nhân
phẩm. Chuyên chính đã giết chết ngẫu hứng và
sáng tạo. Mặt khác, chính sách giáo
dục ngu dân, “bứng
gốc trồng người (vô sản) ” và chủ
trương “hồng hơn chuyên” của Hồ Chí Minh
đã hủy hoại trí óc của ít nửa ba thế
hệ thanh niên.
Dưới
chế độ hiện tại, đất nước
gánh chịu hai tai ương khủng khiếp: tai
ương tư tưởng chính trị ngoại lai Nga-Tàu
và tai ương CS đảng trị nội xâm. Bởi
thế, trong xứ, dân tình chán nản, dân
trí lụn bại
và dân khí suy vi.
o0o
Hướng
về tương lai.
Người
dân Việt nói chung, trí thức nói
riêng, rất hãnh diện
về xứ sở, gốc gác và gia đình của mình.
Họ không có óc phiêu lưu, càng
không thích di cư. Nay hoàn
cảnh bắt buộc họ phải bất chợt thay
đổi cách sống, quốc tịch, môi trường và
lắm khi luôn cả lý lịch tại một đất
nước mới. Sự đổi đời này gây ra
một địa chấn về tinh thần, không thể
tẩy xóa được hậu quả. Ít nữa
đối với thế hệ di cư đầu tiên.
Như
những cây trốc gốc đem trồng lại nơi
phong thổ xa lạ, người trí thức VN hải
ngoại đang sa vào một cơn khủng hoảng
trầm trọng. Nơi đa số chọn làm đất
dung thân, Hoa kỳ, là một thế giới tạp
chủng và đa văn hóa, khác ngôn ngữ và
truyền
thống dị biệt. Một terra incognita. Nền văn
minh nước Mỹ năng động, dựa vào
sức mạnh của khoa học kỹ thuật, cởi
mở, đề cao dân chủ và nhân quyền nhưng
cũng thực tế tàn nhẫn, cạnh tranh không khoan
nhượng, lỏng lẻo về gia đình, vinh danh cá
nhân và thường lấy sự thành công vật chất
để đánh giá con người. Ở Đông
phương, văn hóa tạo sức mạnh. Tại siêu
cường Hoa kỳ, sức mạnh tạo ra văn hóa,
văn hóa của sức mạnh, đang thay đổi
bộ mặt của địa cầu.
Bởi
thế, dễ hiểu vì sao trí thức VN hiện hoang mang
về ngày mai của đất nước, hoài nghi chính
mình, ngờ vực luôn cả xã hội nơi dung thân
vì
những giá trị tinh thần, đạo lý và cách
mạng
yêu nước đều bị cơn bão táp chính trị
quay cuồng đảo lộn.
Trong
tap chí Foreign Affairs, Gs Samuel Huntington, thuộc đại
học Harvard, đã hữu lý nói đến “ sức va
chạm giữa các nền văn minh - the shock of
civilizations”. Con người trí thức Việt cảm
thấy mình chỉ là hạt cát trong cơn lốc toàn
cầu. Đến nay, phần lớn sáng tác của ngành
văn học lưu đày mang tính chất yếm thế
và tiêu cực. Một danh từ mới “văn học
tuyệt vọng, littérature du désespoir” được đem
ra áp dụng.
Thái
độ vừa nêu chỉ là một tâm trạng, chưa
biến thành một trào lưu, may thay. An phận, cam
chịu, thờ ơ, chán nản hay bất mãn thụ
động, đều không phải là những thái
độ thích ứng. Thật vậy, kẻ sĩ VN
trải qua nhiều thử thách, phạm nhiều lầm
lở nhưng cũng đã cống hiến không ít cho
đại cuộc. Với ý chí tìm một xuất lộ
cho Đất nước, người trí thức chân chính
quyết không từ bỏ trách vụ tiền phong, dù
biết trước sẽ bị bạc đãi và đày
ải.
Để
dành thế chủ động chính trị trong nước,
cần gấp xây dựng lại sức mạnh của trí
thức, bằng cách tôn trọng và khai thác triệt
để các giá trị đa dạng của giới này.
Ngày nay, trí thức đã nhận thức được
những nhu cầu thực tiển và cấp thời của
xứ sở trong đó có việc chấn hưng
đạo đức, tái lập công lý xã hội và
xây
dựng pháp trị.
Cuộc
đấu tranh sẽ chuyễn hướng khi hàng ngũ
trí thức tâp hợp chặt chẽ trong và ngoài
nước để hành động. Khối di cư
Việt hiện có tiềm năng tài chính khá dồi
dào,
đặc biệt một kho chất xám 300.000 chuyên viên,
thuộc đủ mọi ngành, được huấn
luyện trong tự do, dân chủ. Những tiềm năng
ấy chưa được tận dụng theo một
kế hoạch hợp lý đề dân chủ hóa
đất nước. Còn nhiều phí phạm đáng
tiếc.
Mặt
khác, cần sớm lấp bằng cái khoảng cách thế
hệ và tạo cho giới trẻ một tinh thần
sĩ phu, không để họ mất gốc hay vọng
ngoại, hãy đưa họ về với dân tộc VN.
Họ là hạt nhân, chất men và ánh sáng
trong công cuộc
quang phục Quê hương. Là những luồn gió
thoáng,
họ sẽ quét sạch ám khí CS phủ lên trên
giang san
gấm vóc Việt Nam.
Dân
tộc thức tỉnh, Đất nước mới
hồi sinh. Đoàn kết tạo đồng tâm, biến
chiến hữu thành đồng chí. Đoàn kết tuy khó,
không phải là vấn đề nan giải nếu tất
cả coi trọng sự sống còn của xứ sở,
nếu mọi người không luôn luôn dành làm
cái
đầu và có nhiều người tình nguyện làm
cái
đuôi. Nếu mỗi người chiụ khó nghe và làm,
thay vì chỉ nói và bàn suông, tri
hành bất nhất.
Chúng
ta hãy tự vấn: CS đoàn kết được
để phản bội dân tộc và hủy hoại toàn
diện hệ thống giá trị của xứ sở.
Tại sao người quốc gia, thường tự cho
là nắm chính nghĩa trong tay, lại không đoàn
kết
được để đấu tranh? Phải chăng
chính chúng ta đã làm cho chúng ta
mất nước? Phải
chăng sự chia rẽ giữa chúng ta đã tạo
sức mạnh cho CS? đang giúp CS sống cầm hơi?
Ngoài
những điều lếu láo phát ngôn trọn đời,
Hồ Chí Minh có nói một câu ít nữa
nghe được:
“Có Dân là có tất cả.” Nhưng làm thế
nào thu phục
và giữ được lòng dân? Thành công trong
tương
lai tùy thuộc vào cách giải đáp đúng
câu hỏi này.
Chế độ, đảng phái, học thuyết chính
trị... chỉ là những viên đá lót đường
cho Lịch sử. Tất cả đều phù du. Dân
mới bất diệt, Dân mới trường cửu. Dân
thiếu lãnh đạo là một cái xác không
hồn. Còn lãnh
tụ mà không có dân thì không
khác gì một cái đầu không
có thân xác.
Thuở
trước, các bậc tiền bối đã nêu
gương sáng cho chúng ta: Khi Phan Khôi tranh luận
với
Trần Trọng Kim về Nho giáo, Ngô Đức Kế
phản bác chính kiến của Phạm Quỳnh, hay Phan Châu
Trinh và Phan Bội Châu “hòa nhi bất đồng”, họ
luôn
luôn tự chế, lễ độ và tương kính,
bất đồng nhưng không bất hòa. Đối
với họ, quốc gia là cứu cánh, dân tộc là
đối tượng, ngoại xâm mới là kẻ thù
chung, kẻ thù duy nhất.
Đoàn
kết sẽ chấm dứt “hội chứng chờ
đợi” (người này đợi kẻ khác phất
cờ khởi nghĩa!). Đoàn kết cũng sẽ xóa
bỏ “dị ứng tổ chức “ một cơ cấu
đấu tranh có uy tín, có lãnh đạo,
cán bộ, kỷ
luật và kế hoạch dân chủ hóa VN.
Để
kết luận, không ai đương nhiên là trí thức.
Không ai bỗng nhiên trở thành sĩ phu. Sĩ phu
là một
sự chọn lựa đúng lý tưởng, một
quyết tâm dấn thân phục vụ, đầy gian
khổ, ít vinh quang.
Như
con tằm nhả cho hết tơ mới chết, như
cây nến cháy cho tận bấc, lệ mới hết tuôn
rơi: Đó là thân phận của người sĩ phu yêu
nước, theo hai câu thơ của Lý Thương Ẩn:
“Xuân
tàn đáo tử ti phương tận,
Lạp
cự, thành hội lệ thủy can”
Xin
cám ơn sự
chú ý của các bạn,
LÂM LỄ
TRINH
Ngày
25.8.2002,
Thủy
Hoa Trang, Californie
TÀI
LIỆU THAM
KHẢO:
- Nho
giáo, Trần
Trọng Kim, nxb Xuân Thu 1990
- Văn học
sử thời kháng Pháp (1858-1945), Lê Văn Siêu,
nxb Xuân Thu,
1991
- Tình
tự dân
tộc, Võ Thu Tịnh, nxb Xuân Thu 1999
- Thân
phận trí
thức, Vũ Tài Lục, nxb Xuân Thu 1990
- Dăm ba
điều nghĩ về Văn học Nghệ thuật,
Trần Hồng Châu, nxb Văn Nghệ 2001
- Vietnam,
NOW, David
Lamb, Public Affairs, New York, 2002
- Nhân
chứng
một chế độ, tập ba, Huỳnh Văn Lang, tác
giả xuất bản, 2001
- Sức mạnh
của Văn hóa - Văn hóa của Sức mạnh, Lâm
Lễ Trinh, tạp chí HNNV, 1999
- Hồ sơ
Đệ tứ Quốc tế VN, tập 1, Tủ sách
Nghiên Cứu, Paris, 2000
- Việt Nam:
Đệ Ngũ Thiên Kỷ, Một nhóm thức giả, nxb
Trung Tâm VHVN, 1994