Ðảng Cộng
Sản
Việt Nam
Qua Những Biến
Ðộng
Trong Phong Trào Cộng Sản
Quốc Tế
Nguyễn
Minh Cần
LTS: Nhậ n
thấy cuốn sách
"Ðảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến
Ðộng Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế của
ông Minh Nguyễn Cần là một cuốn sách giá trị
với nhiều nhận định sâu sắc, chứa
đựng nhiều tài liệu lịch sử hữu ích;
chúng tôi liên lạc với ông Nguyền Minh Cần
và ông
đã có nhã ý để đăng trên tờ Tạp
Chí Cách
Mạng trong việc phổ biến rộng rãi đến
mọi người.
Tiểu Sử:
Nguyễn Minh
Cần
Sinh năm 1928
tại
Huế. Tham gia phong trào giải phóng dân tộc đầu
năm 1945, khi còn là học sinh, hoạt động trong
một tổ chức bí mật của Việt Minh. Tháng 8
năm 1945, tham gia tổ chức và lãnh đạo khởi
nghĩa ở thành phố Huế và vùng phụ cận.
Sau
Cách mạng tháng 8,
hoạt động trong phong trào công nhân Huế. Vào
Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm
1946, sau đó là ủy viên Thường vụ Thành ủy
Huế. Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp
hồi tháng 12 năm 1946, ở trong Ban chỉ huy mặt
trận B thành phố Huế. Từ năm 1947, hoạt
động trong vùng tạm chiếm tỉnh Thừa Thiên,
làm bí thư Huyện ủy Hương Trà, về sau là
ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên
cho đến đầu năm 1951.
Từ năm 1951,
được Trung ương Đảng điều
động ra Hà Nội, vào hoạt động bí mật
ở Hà Nội đang bị Pháp chiếm. Từ tháng 10 năm
1954 đến năm 1962 là thành ủy viên, rồi ủy
viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, phó chủ
tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội,
chủ
nhiệm báo “Thủ Đô Hà Nội”.
Năm 1962, đi
học
Trường Đảng Cao cấp thuộc Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Moskva.
Do bất đồng với đường lối thân Mao
của ban lãnh đạo Đảng, bị lãnh đạo
Đảng truy bức, tháng 6 năm 1964 đã thoát ly
Đảng Cộng sản và xin cư trú chính trị
tại Liên Xô. Tại đây, làm nghề phiên
dịch và biên
tập ở Nhà xuất bản Tiến Bộ, Moskva trong 25
năm.
Khi bắt đầu
perestroika, đã tích cực tham gia phong trào
dân chủ ở
Nga và nhiệt thành ủng hộ cuộc đấu tranh cho
dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Hiện cư
trú tại Moskva.
Sách
đã xuất bản:
“Công
Lý Đòi Hỏi”, NXB
Văn Nghệ, năm 1997;
“Chuyện Nước
Non”,
NXB Văn Nghệ, năm 1999;
“Đảng Cộng
sản
Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào
Cộng Sản Quốc Tế”, NXB Tuổi Xanh, năm 2001.
Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) qua những biến động trong phong trào
cộng sản quốc tế (PTCSQT) là một đề
tài khá rộng. Việc nghiên cứu kỹ đề tài
này
có thể giúp ta hiểu được nhiều vấn
đề thuộc về quá khứ không xa, cũng như
hiện tại và tương lai của đất
nước. Để có thể có cái nhìn bao quát
giúp cho
việc nghiên cứu được sâu, người
viết xin trình bày theo trình tự sau đây:
Đôi
điều về
đảng cộng sản (ĐCS) và PTCSQT,
Đôi
điều về
ĐCSVN,
Những thời kỳ
biến động lớn nhất trong lịch sử
PTCSQT,
ĐCSVN qua
những
biến động đó.
Những vấn đề
này liên quan chặt chẽ với nhau. Có hiểu
được thực chất của ĐCS nói chung và
PTCSQT thì dễ dàng nắm bắt được những đặc
điểm chính của ĐCSVN, và khi biết rõ những
đặc điểm đó rồi thì dễ dàng hiểu
được thái độ của ĐCSVN trước
những biến động lớn trong PTCSQT, và nhất là
hiểu được thái độ của ĐCSVN trong
tình hình hiện nay trước xu thế chung của
thời đại, đồng thời có thể dự
đoán phần nào sự chuyển biến tình hình
đất nước trong tương lai.
Đây
là một bài có tính
chất nghiên cứu, nên người viết chủ
yếu dựa trên sự kiện thực tế và trình bày
thẳng thắn, không thêm bớt, không thiên vị để
bảo đảm tính khách quan.
Nhận thức
rằng
những điều trình bày dưới đây mới
chỉ là nét phác họa chưa đầy đủ,
sức của người viết thì có hạn, mà
đề tài lại lớn cần có sự nghiên cứu
sâu hơn và kỹ hơn của nhiều người, nên
mong mỏi và hoan nghênh các nhà nghiên
cứu cùng các bạn
đọc góp sức, góp ý để vấn đề
được sáng tỏ thêm. Người viết sẵn
sàng đón nhận với lòng biết ơn mọi ý
kiến phê bình xây dựng.
I. Đôi
điều
về ÐCS và PTCSQT
Trước hết,
cần biết qua quan điểm của các lãnh tụ
cộng sản Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông
về ĐCS, cũng như thực tiễn xây dựng
đảng của họ, để dễ hiểu về
ĐCSVN, vì xưa nay những người lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đều coi quan điểm lý
luận của các lãnh tụ
đó là “kim chỉ nam cho hành động” của họ,
còn
các Đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX)â, Trung
Quốc (ĐCSTQ) là khuôn mẫu để họ rập
theo xây dựng ĐCSVN.
A. Quan điểm
của
Marx-Engels về ĐCS
Khi
nghiên cứu xã hội
tư bản, Karl Marx và Fredrich Engels cho rằng cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nước Âu Mỹ đã
sinh ra giai cấp vô sản, lực lượng xã
hội chủ yếu tạo ra mọi của cải
vật chất của xã hội tư bản chủ
nghĩa. Trong quá trình sản
xuất, giai cấp vô sản tạo ra giá trị và giá
trị thặng dư, và giai cấp tư bản ăn bám
đã chiếm đoạt thứ giá trị thặng dư
này để trở nên giàu có. Toàn bộ
quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai
cấp vô sản, nhất là vô sản công nghiệp, trở
thành giai cấp tiên tiến
nhất, có tổ chức nhất, cách mạng
triệt để nhất, nó là giai cấp lãnh đạo
cách mạng vô sản, nó sẽ là kẻ đào mồ
chôn
chủ nghĩa tư bản và xây dựng nên xã hội
mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Muốn
làm được nhiệm vụ lịch sử đó, theo
Marx và Engels, thì “phải tổ chức những
người vô sản thành giai cấp (ý nói phải tổ
chức đảng của vô sản - NMC), lật
đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”
(1).
Trong
bài này, chúng tôi không
muốn bàn nhiều đến sai lầm trong luận
điểm của Marx và Engels về vai trò của giai
cấp vô sản trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, cũng như vai trò lãnh đạo của
giai cấp đó trong xã hội, vì đề tài
đó
thuộc một vấn đề khác rộng hơn.
Nhưng vì luận điểm đó là cơ sở
đặt nền móng cho toàn bộ học thuyết
của hai ông, trong đó có lý luận về đảng
của giai cấp vô sản, nên buộc lòng cũng
phải nói qua. Luận điểm trên của Marx và Engels
về vai trò của giai cấp vô sản là dựa trên
sự phân tích xã hội tư bản được trình
bày một cách thiên lệch trong bộ “Tư bản”
của Marx. Vì tác giả
của nó muốn đề cao vai trò của giai cấp vô
sản, nên khi trình bày về kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã cố tình chỉ nhấn mạnh đến
đến vai trò lao động, chủ yếu bằng chân
tay, của giai cấp vô sản trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa nói chung, cũng như trong
sự cấu thành giá trị và giá trị thặng dư
nói
riêng, mà coi nhẹ hoặc không đếm xỉa
đến thứ lao động quan trọng nhất,
quyết định nhất
là lao động bằng trí tuệ của tầng lớp
trí thức, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, tức là lớp người tạo nên nền
sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại, và của tầng lớp quản lý, tức là
lớp người điều khiển, vận hành toàn
bộ nền sản xuất phức tạp đó, trong
việc này có cả phần đóng góp của giai cấp
tư bản. Do phương pháp luận không khách quan
đó, nên Marx đã rút ra những kết luận sai
lầm. Thực tiễn thế giới ngay giữa thế
kỷ 20 đã hoàn toàn bác bỏ những kết luận
của Marx về vai trò của giai cấp vô sản trong xã
hội, bác bỏ những điều khẳng định
về những tính chất “tiên tiến nhất,
có tổ chức nhất, cách mạng
triệt để nhất” của giai cấp này. Còn
đến cuối thế kỷ 20, khi nền kinh tế toàn
cầu hóa, cuộc cách mạng tin học tiến mạnh,
kinh tế tri thức nở rộ thì chẳng còn mấy ai
tin vào những kết luận đó nữa. Thế mà, Marx
và Engels dựa trên những kết luận sai lầm
đó, đã đưa ra trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” (năm 1848) quan niệm về
đảng của những người cộng sản
và nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản
của giai cấp vô sản.
Công
bằng mà nói, trong các
tác phẩm của mình, hai ông
thường nhấn mạnh: cách mạng vô sản
chỉ có thể tiến hành ở các nước công
nghiệp phát triển, nghĩa là những nước
thực sự có giai cấp vô sản, và ĐCS phải thực
sự là “đảng của giai cấp vô sản” mang
tính chất vô sản. Sở dĩ phải nhấn mạnh
như thế vì hai ông phòng trước: nếu không
có
điều kiện căn bản đó, ĐCS sẽ
là đảng
của lớp nghèo không phải vô sản, “lớp đáy”
của xã hội, mà Marx gọi là “lumpen-proletariat”
(vô sản
áo rách, vô sản lưu manh), sẽ mang nặng tính
chất
của các tầng lớp đó và vì thế sẽ làm
sai
mục tiêu của cách mạng vô sản. Về sau, Lenin
và
phe cánh của ông ta tự cho mình phát triển
chủ
nghĩa Marx thì lại coi nhẹ điều này, ông cho
rằng cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các
nước công nghiệp kém phát triển, nơi đang là
khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản.
Thậm chí Lenin và phe cánh còn cho rằng
những nước
chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa
tư bản cũng có thể làm cách mạng vô sản
miễn là họ nhận được sự giúp
đỡ của một nước mà ĐCS nắm chuyên
chính vô sản.
Nếu
nghiên cứu kỹ
thì có thể dễ dàng nhận thấy một số quan
điểm căn bản về ĐCS của Marx và Engels
ghi trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” khác
với quan niệm và thực hành của Lenin và những
lãnh tụ cộng sản khác trong thế kỷ 20. Có
những điều hai ông đã viết ra rất ít
được những người theo chủ nghĩa Lenin sau
này nhắc tới
hoặc đem ra bình luận. Vì thế, xin dẫn ra ở
đây vài đoạn đáng chú ý trong
“Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”:
“... về mặt
thực
tiễn, những người cộng sản là bộ
phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân
ở tất cả các nước...” (2)...
“Những người
cộng sản không phải là một đảng riêng
biệt, đối lập với các đảng công nhân
khác”
(3)...
“Họ
không đặt ra
những nguyên tắc phe phái nhằm khuôn phong
trào công nhân
theo những nguyên tắc ấy.
Những người
cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản
khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc
đấu tranh của những người vô sản
thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên
hàng
đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ
thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai
cấp vô
sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của
cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản,
họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn
bộ phong trào”
(4).
Qua những
điều
đó thấy rõ rằng, khi đặt cho đảng
của giai cấp vô sản nhiệm vụ làm cách mạng
vô sản đánh đổ chế độ tư bản
chủ nghĩa bằng bạo lực, rồi dùng chuyên chính
vô sản để tiêu diệt giai cấp tư bản,
xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels quan
niệm ĐCS là một tổ chức xã hội,
chứ không phải là một hội kín của những
kẻ âm mưu. Cứ nhìn các đảng vô sản
dưới thời hai ông, chẳng hạn, công
đảng, đảng xã hội chủ nghĩa,
đảng xã hội-dân chủ... thì thấy rõ điều
này. Marx và Engels quan niệm một nền chính
trị,
trong đó giai cấp vô sản có nhiều đảng,
chứ không phải một ĐCS duy nhất. Dĩ nhiên,
không thể coi đây đã là nền chính trị
đa
nguyên, đa đảng theo quan niệm dân chủ hiện
thời, vì hai ông chỉ nói đến “các đảng
công
nhân khác” mà thôi. Hai ông không
quan niệm ĐCS là một
tổ chức cao nhất đứng trên các đảng vô
sản khác, có độc quyền lãnh đạo hay
độc tôn thống trị các đảng và các tổ
chức vô sản khác, như Lenin, Stalin và Mao Trạch
Đông về sau đã chủ trương. Điều
đáng chú ý nữa là Marx và Engels
luôn luôn đề cao chủ
nghĩa quốc tế, hai ông nhấn mạnh trong
bất cứ trường
hợp nào ĐCS không được lấy quyền
lợi dân tộc làm gốc mà phải lấy chủ
nghĩa quốc tế làm căn bản. Điều này thì
càng về sau, các ĐCS hoặc chỉ nói mà
không làm,
hoặc chỉ lợi dụng chiêu bài chủ nghĩa
quốc tế vô sản để che đậy cho
quyền lợi tập đoàn của họ.
Về mặt thực
hành
quan điểm của hai ông về đảng, Marx và Engels
đã lập ra hồi năm 1864 “Liên minh công
nhân quốc
tế” (sau này được mệnh danh là Đệ
Nhất Quốc tế), với số phân bộ không
nhiều, phần lớn ở châu Âu. Trước đó,
Marx và Engels cũng lập ra “Liên đoàn những
người cộng sản”, nhưng trên thực tế
cả tổ chức này cũng không có hoạt động
gì nổi bật, ngoài việc ra “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”. Do cuộc đấu tranh
giữa các khuynh hướng trong nội bộ “Liên minh công
nhân quốc tế”, tổ chức này dần dần tan rã,
và
năm 1876 tuyên bố tự giải tán. Đến năm
1889, cuộc đại hội các đảng xã hội
chủ nghĩa (ở Việt Nam thường gọi là đảng
xã hội) của nhiều nước châu Âu, của Mỹ
và Argentina đã thành lập “Liên minh
quốc tế
của các đảng xã hội chủ nghĩa” (về
sau được mệnh danh là Đệ Nhị
Quốc tế). Sau khi Engels mất (1895), Đệ
Nhị Quốc tế bị Lenin công kích thậm tệ, lên
án tổ chức quốc tế này là theo đường
lối “xét lại”, cải lương, cơ hội
chủ nghĩa, thỏa hiệp giai cấp, tay sai của
tư sản và phản bội cách mạng. Lenin tuyên bố
là trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển
sang
nước Nga và chỉ có ĐCS “bolshevik” Nga mới
thật là cách mạng triệt để.
B. Quan điểm
và
thực hành của Lenin về ĐCS
Lenin tự cho
mình là
người kế nghiệp chân chính những di sản lý
luận của Marx và Engels, còn Karl Kautsky là
renégat (các
dịch giả Hà Nội chuyển ngữ là: kẻ phản
bội), dù về mặt pháp lý Kautsky được di
chúc
là người thừa kế chính thức các di cảo
của Marx và Engels. Trên thực tế rất nhiều
vấn đề Lenin đã làm khác, nếu không muốn
nói
là xuyên tạc, những tư tưởng của Marx và
Engels. Làm như thế, Lenin và phe cánh của
ông cho rằng
họ đã phát triển chủ nghĩa Marx. Chẳng
hạn, về lý luận, Lenin cho rằng cách mạng vô
sản có thể giành được thắng lợi ở
cái khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản,
khâu đó là nước Nga - một nước mà chủ
nghĩa tư bản phát triển còn thấp, chứ không
nhất thiết phải nổ đồng loạt ở
nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã phát
triển, như Marx và Engels đã dự kiến, mà muốn
thế thì phải có một “đảng kiểu mới”
khác hẳn với các đảng vô sản đã có
trong các
Quốc tế dưới thời Marx và Engels. Quan
điểm của Lenin về “đảng kiểu
mới”, dĩ nhiên, khác hẳn quan điểm của Marx
và Engels.
Khi
phân tích quan điểm
này của Lenin, chúng tôi không viện dẫn những
câu
“nhật tụng” “tung hỏa mù” mà giới lý luận
xô-viết thường hay trưng ra (như ĐCS là đội
quân tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai
cấp vô sản, ĐCS là đội quân có tổ chức
nhất của giai cấp vô sản, v.v... và v.v...)
để che đậy quan
điểm thật của Lenin về ĐCS, mà chúng tôi
dựa vào sách “Làm gì?” do Lenin viết
và xuất bản
năm 1902 ở Stutgart. Trong tác phẩm đó, Lenin nói
rõ
nhất về quan điểm của ông và kế hoạch
xây dựng ĐCS “kiểu mới” của những
người cách mạng chuyên nghiệp. Ông cho rằng
ở nước Nga tuy chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển cao nhưng vẫn có thể làm
cách
mạng vô sản thắng lợi được, miễn
là những người cộng sản xây dựng
được ĐCS “kiểu mới” thật bí mật
biết dùng bạo lực để cướp chính
quyền, nói một cách khác xây dựng được
một hội kín của
những kẻ âm mưu. Ngay hồi đầu thế kỷ
20, Lenin đã nói: “Hãy cho tôi một đảng
những
người cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật
ngược cả nước Nga” (còn sau cuộc
đảo chính tháng 10.1917, ông mơ ước lật
ngược cả thế giới nữa!). Ông cho rằng
người muzhich (nông dân) Nga vốn có truyền thống
khuất phục, nếu ĐCS cướp được
chính quyền rồi thì cả xã hội đều sẽ
khuất phục theo và bằng bạo lực của chuyên
chính vô sản, ĐCS sẽ
xây dựng được chế độ cộng sản.
Để chuẩn bị cướp chính quyền, Lenin
đặc biệt chú ý lập ra các nhóm khủng bố
võ trang gồm cả những phần tử tội
phạm để làm nhiệm vụ “tước
đoạt” (ăn cướp), ám sát, v.v... Chỉ huy các
nhóm khủng bố này là ba người (gọi là
“troika”)
rất bí mật trong trung ương Đảng bolshevik,
trong “troika” đó có Lenin và Krasin. Nên
nhớ rằng, hồi
đó, Đảng bolshevik là một bộ phận của
Đảng công nhân xã hội – dân chủ Nga, mà
Đảng
công nhân xã hội –
dân chủ
Nga thì cực lực lên án và cấm tuyệt
hành
động khủng bố, cho nên Lenin và phe cánh phải
giữ bí mật tuyệt đối nhóm “troika” và việc
ông ta chỉ huy nhóm khủng bố (5). Thực tế đã
chứng tỏ rằng với cái “đảng-hội kín-âm
mưu” đó, Lenin và những người bolsheviks Nga có
được trong tay một công cụ (instrument) hữu
hiệu đã làm đảo chính cướp chính quyền
và thiết lập chuyên chính vô sản hồi
tháng 10.1917.
Ngày nay, giới sử học Nga cũng đã khẳng
định sự biến tháng 10.1917 là một cuộc
đảo chính lật đổ chính quyền dân chủ
chứ không phải là một cuộc cách mạng, như
những người bolsheviks thường nói. Và chính Lenin trong mấy năm
đầu sau tháng 10.1917 cũng gọi đó là “đảo
chính” (tiếng Nga là “perevorot”,
các dịch giả Hà Nội cố ý chuyển ngữ
bằng một từ rất lờ mờ là “chính biến”
– NMC).
Để xây
dựng
ĐCS với thực chất hội kín của những
kẻ âm mưu như vậy, Lenin đặc biệt
nhấn mạnh vai trò “những người cách mạng
chuyên nghiệp”. Ông viết: “... tổ chức của
những người cách mạng phải bao gồm
trước tiên và chủ yếu những người mà
nghề nghiệp của họ là hoạt động cách
mạng ...” (6). Sự thật chứng tỏ rằng
“những người cách mạng chuyên nghiệp” Nga
trước tháng 10.1917, phần lớn là những kẻ vô
nghề nghiệp, không lao động, hoặc có nghề
nghiệp mà không làm việc gì, ngoài
“việc làm” cách
mạng; cũng có một số đã có quá khứ tội
phạm. Ngay cách làm tài chính cho tổ chức
của
những người chuyên nghiệp này cũng thấy rõ
tính chất hội kín của những kẻ âm mưu:
dựa vào hoạt động khủng bố để cướp
đoạt làm tiền cho đảng (họ gọi
bằng từ ngữ của Marx là tước
đoạt). Lenin lý giải thật giản đơn cái
quan điểm về “những người cách mạng
chuyên nghiệp”. Ông viết: “bắt được
mười thằng khôn khó hơn bắt một trăm
thằng ngốc”, và ông nhấn mạnh: “phải
hiểu rằng – như tôi đã nhiều lần vạch
rõ – chỉ có những người cách mạng chuyên
nghiệp (chữ in đậm của Lenin – NMC)
mà thôi” (7). Nhưng cả “những thằng khôn”
lẫn “những thằng
ngốc” đó phải đứng vào trong “một tổ
chức bí mật hết sức nghiêm ngặt”, và tổ
chức này phải do “một ủy ban gồm những
người cách mạng chuyên nghiệp” (8) điều
khiển. Rõ ràng là theo quan điểm của Lenin, ĐCS
thực ra là một hội kín
của những kẻ âm mưu, chứ không phải
là một chính đảng với tính cách là
tổ chức
xã hội của giai cấp vô sản. Bản thân Lenin
cũng không giấu giếm điều đó, khi ông nói: “thật vô cùng ngây thơ khi sợ bị
buộc tội chúng ta, là những người xã hội-dân
chủ, lại muốn thành lập một tổ chức
âm mưu” (9). Ông cho rằng tổ chức đó cần
có “một mạng lưới những agents” (từ
này trong tiếng Nga có nhiều nghĩa, chúng
tôi muốn
giữ nguyên dạng từ này, vì nó lột tả thực
chất cách đặt vấn đề của Lenin),
nhưng - theo ông – “nếu ai đó không thích
“cái từ
khủng khiếp” này thì có thể thay bằng từ
“những nhân viên”, có khả năng bảo đảm “xác
xuất lớn nhất của thắng lợi trong
trường hợp nổi dậy” (10). Cũng vì tính
chất hội kín của những kẻ âm mưu, nên Lenin
luôn luôn đưa lên hàng đầu đòi hỏi
“đảng kiểu mới” phải là một tổ
chức “tập trung nhất”,“bí mật nhất” và phải
“có kỷ luật sắt” cực kỳ nghiêm ngặt.
Nền tảng để xây dựng “đảng kiểu
mới” với tính cách “công cụ” ngoan ngoãn của
một
lãnh tụ hoặc một nhóm lãnh tụ là
nguyên tắc
tập trung dân chủ. Chính nguyên tắc này bảo
đảm sự phục tùng tuyệt đối của
đại đa số đảng viên đối với
một nhóm nhỏ những người lãnh đạo, hay
nói theo cách của Lenin
“một ủy ban gồm những người cách
mạng chuyên nghiệp”, và ủy ban này – đến lượt
nó – phải phục tùng tuyệt đối một hay vài
lãnh tụ (chẳng hạn, nhóm ba người gọi là
“troika” đã nói trên). Nhóm nhỏ lãnh
đạo ĐCS này khi
cướp được chính quyền rồi trở
thành tập đoàn thống trị nhà nước và
xã
hội.
Lenin
còn đưa ra
luận điểm về “sự độc quyền
lãnh đạo (hégémonie) của giai cấp vô
sản,
tức là của ĐCS”. Xin chú ý rằng: trong
các
cụm từ “sự độc quyền lãnh đạo
của giai cấp vô sản” hay “chuyên chính của giai
cấp vô sản”, cái vế “của giai cấp vô sản”
chỉ là một cách nói đẹp để dụ
hoặc người lao động, còn nghĩa thực
của nó là của một hoặc vài lãnh tụ, tức
là
một nhúm nhỏ “những người cách mạng chuyên
nghiệp”, nói cách khác là một tập
đoàn thống
trị cộng sản. Đối với Lenin, cả
giai cấp vô sản, hay nói rộng hơn toàn dân
tộc,
toàn nước Nga chỉ có thể có một đảng
duy nhất, đó là ĐCS của những người
bolsheviks, đứa con đẻ quan trọng nhất
của “chủ nghĩa Lenin”, hình mẫu cho các ĐCS trên
thế giới.
Đấy, quan
niệm
về ĐCS của Lenin là như thế, và chính quan
niệm đó là một trong những cơ sở
để xây dựng lên chế độ cực quyền
toàn trị khi ĐCS đã cướp được
chính quyền. Sau cuộc
đảo chính tháng 10.1917, ĐCS trở thành một
yếu tố chính của nhà nước mới xuất
hiện. Những người bolsheviks, thông qua ĐCS,
nắm quyền thống trị độc tôn chuyên
chế vô hạn đã tiêu diệt hết các
đảng và các tổ chức đối lập, tiêu
diệt “các giai cấp thù địch” – cụ
thể là giai cấp các chủ ruộng
đất, giai cấp các nhà công nghiệp, thương nghiệp,
giai cấp những người nông dân năng nổ
nhất, đắc lực nhất trong nền sản
xuất nông nghiệp (tiếng Nga gọi là kulak), giai
cấp các nhà trí thức, tiêu diệt hết mọi mầm
mống dân chủ trong xã hội. Quyền chuyên chế vô
hạn đó đã được thiết lập ở
Nga hồi tháng 10.1917 là do trình độ văn
hóa chính
trị thấp kém của dân chúng, đặc biệt là
của người muzhich ở nông thôn, và truyền
thống dân chủ quá non yếu của xã hội Nga.
Bằng bạo lực đẵm máu, những người
cộng sản-bolshevichs duy trì được quyền
đó đã hơn bảy thập niên ở nước Nga
cho đến khi ĐCS bị hạ bệ hồi tháng
8.1991. Trong suốt thời gian đó, ĐCS đã biến
mình trở thành trung tâm liên kết và hình
thành một giai
cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu
đặc quyền đặc lợi gọi là
“nomenklatura”.
Một điểm quan
trọng cần vạch rõ nữa là: sau ngày ĐCS
cướp được chính quyền ở Nga, xuất
hiện ngay một sự cộng sinh (symbiose)
giữa đảng và nhà nước, dựa trên sự
kết hợp trước hết giữa đảng và
cơ quan công an mật vụ
(lúc đầu gọi là Vecheka - ủy ban đặc
biệt toàn Nga, hay Cheka - ủy ban đặc biệt).
Điều đó thể hiện rõ trong nhiều “chỉ
thị” của Lenin. Xin dẫn một đoạn trong
thư Lenin gửi cho Yakov Ganetsky: “hãy thiết lập
mối quan hệ khắng khít nhất giữa
các tổ chức đảng với các
Cheka... bắt buộc tất cả các đảng viên có
chức vụ phải báo cho các Cheka tất cả những
tin tức đến họ bằng con đường
riêng tư hay chính thức và có ích cho
cuộc đấu
tranh chống phản cách mạng và gián điệp.
Không
chỉ hạn chế trong việc đó mà thôi, họ còn
phải giúp đỡ một cách hữu hiệu các Cheka,
tham gia việc xét xử... dự các cuộc hỏi cung,
v.v...” (11). Chính Lenin đã từng viết: “một
người cộng sản tốt đồng thời
phải là một chekist (công an mật vụ) tốt”
(12). ĐCS cầm quyền thực tế trở thành một
đảng-nhà nước. ĐCS giống như con
bạch tuộc vươn dài các vòi của nó
bám chặt
vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nước,
xoắn quyện nhau, gắn chặt thành một bộ máy
đảng-nhà nước của giai cấp thống
trị mới, giai cấp quan liêu (nomenklatura) đông hàng
nhiều triệu người. Bộ máy này rất to
lớn và cồng kềnh đè nặng lên quảng
đại dân chúng, trước nhất là các giai cấp
mà
đảng coi là thành phần cơ bản của xã
hội (công nhân và nông dân lao động),
cũng như lên
quần chúng đảng viên. Bằng bạo lực chuyên
chế đẵm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng
những mọi phản kháng, mọi ý đồ
đối lập, mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả
mọi tư tưởng độc lập, mọi ý
hướng dân chủ, mọi tư tưởng khác
biệt trong đảng và ngoài xã hội.
Vô
hình trung trong cả
đất nước rộng lớn bao la chiếm
đến một phần sáu địa cầu đã hình
thành nên một kim tự tháp xã hội mà
kẻ đứng
trên đỉnh tháp là “lãnh tụ tối cao” của
đảng với quyền lực cá nhân không hạn
chế được tôn vinh là “lãnh tụ của giai
cấp vô sản toàn thế giới” (Lenin) hoặc
“người cha của các dân tộc” (Stalin), thực
chất là một Nga hoàng đỏ, một tên độc
tài đỏ. Trong kim tự tháp lớn lại có nhiều
kim tự tháp nhỏ, trên đỉnh mỗi kim tự tháp
nhỏ là một bí thư đảng bộ cộng
sản địa phương, tức là một “lãnh
tụ con”, một lãnh chúa phong kiến đỏ. Còn ở
đáy kim tự tháp là quảng đại dân
chúng, bao
gồm chủ yếu là
những thành phần gọi là cơ bản của
đảng – công nông binh, đảng viên thường. Trong
số này một số không ít được giai cấp
quan liêu tuyển chọn làm cán bộ để dần
dần bổ sung vào giai cấp quan liêu cầm quyền,
hoặc làm tay sai cho giai cấp đó.
Đấy, từ quan
niệm của Lenin về ĐCS đã tạo nên chế
độ cực quyền toàn trị như thế. Đó
là hình mẫu chung cho tất cả các nước gọi
là
“xã hội chủ nghĩa”.
C. Dựng
lên một
ĐCS thế giới
Sau khi cướp
được chính quyền bằng một cuộc
đảo chính khá dễ dàng (1917), Lenin càng
say sưa
với những kết luận của mình, đã nêu ra trong
sách “Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản” (viết
năm 1916) mà những
kẻ tán dương Lenin gọi là “phát kiến vĩ
đại, có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới”.
Những kết luận đó là: “chủ nghĩa
đế quốc là giai đoạn chủ nghĩa tư
bản giãy chết”...”là giai đoạn cuối cùng của
chủ nghĩa tư bản”... “là đêm trước của
cách mạng vô sản thế giới”. Để kịp
đón cái “đêm trước của cách mạng vô
sản
thế giới”, để
làm “cách mạng vô sản thế giới” và
thiết
lập “chuyên chính vô sản thế giới”, Lenin và
đảng
bolshevik thực tế bắt tay chuẩn bị thành
lập một “đảng-hội kín-âm mưu” thế
giới, tức là một “ĐCS thế giới”, bao
gồm nhiều ĐCS theo hình mẫu “ĐCS bolshevik Nga”
ở các nước trên thế giới. Đây chính là
thực chất của cái gọi là PTCSQT.
Về việc
thành lập
“ĐCS thế giới” ấy, nhà sử học D. Volkogonov
(viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học,
tiến sĩ triết học, tiến sĩ sử
học, trung tướng của quân đội xô-viết,
vốn là một đảng viên cộng sản chính
thống về sau đã tỉnh thức và trở thành nhà
dân chủ triệt để) đã kể lại như
sau: để chuẩn bị thành lập tổ chức
quốc tế đó, Lenin và đảng bolshevik phái
những agents của công an mật vụ Nga (Vecheka)
đến một số đảng xã hội chủ
nghĩa để phân hóa, chia rẽ, lôi kéo, tuyển mộ
tay chân, cung cấp tài chính, v.v... nhằm tạo ra
“phe
tả” làm “hạt nhân”
đầu tiên của tổ chức “Quốc tế”
mới (13). Volkogonov đưa ra nhiều tài liệu cụ
thể về vai trò của công an mật vụ Nga trong
việc thành lập và hoạt động của Quốc
tế cộng sản, những tài liệu này dẫn
từ kho lưu trữ của QTCS, nay là RSKHIDNI - Trung tâm
lưu trữ văn kiện lịch sử hiện
đại). Hồi năm 1918, ngoài ĐCS bolshevik Nga, ở
châu Âu chỉ có một ĐCS Đức nữa mà thôi,
còn
các nơi khác mới chỉ đang thời
kỳ “thai nghén” “phe tả” trong các
đảng xã hội chủ nghĩa. Theo lệnh của
Lenin, Bộ trưởng ngoại giao Chicherin ra lời kêu
gọi trên đài phát thanh gửi tới tất cả
những người cộng sản châu Âu và châu Á
mời
họ đến Moskva tham dự hội nghị. Không có
tiếng vang đáp lại, vì chẳng ai để ý
đến lời kêu gọi đó cả. Cuối cùng,
chỉ phủ dụ được một số tù binh nước
ngoài đang ở Nga tham gia cuộc họp, cộng thêm
Eberlain từ Đức đến với một vài
người ngẫu nhiên nào đấy nữa. Gần
một tuần lễ, cái nhúm người đó, chưa
đầy ba chục mống, giống như một
bọn âm mưu, bàn cãi nhau: nên lấy danh xưng
cho
cuộc họp như thế nào? Thế là nhúm người
đó quyết định: cuộc họp là “hội
nghị cộng sản quốc tế để thành
lập Đệ Tam Quốc tế”. Tuyên ngôn ký tên
17
(!?) cái gọi là “đoàn đại biểu”, phần
lớn là những kẻ vô danh tiểu tốt, và những
người ngẫu nhiên nào đấy. Còn “Đại bách
khoa toàn thư xô-viết” thì phịa thêm
là đại
hội thành lập Quốc tế cộng sản (QTCS –
Komintern) hồi tháng 3.1919 tại Moskva “có mặt đại
biểu của các ĐCS và các nhóm xã hội
chủ nghĩa
tả phái của 30 (!?) nước”! Lenin đặt nhiệm
vụ chủ yếu cho QTCS là “đấu tranh giành chuyên
chính vô sản thế giới”. Tại “đại
hội” đó, mọi vấn đề đưa ra
đều do Lenin và bộ chính trị (BCT) ĐCS bolshevik
Nga quyết định trước cả. Lenin đã
tự tay viết ra “21 điều kiện gia nhập
QTCS” nhằm chọn lọc các đảng cho vào
Quốc tế mới. Thâm ý của ông là muốn tạo cho
QTCS một hình thức tổ chức chặt chẽ mà ông
và ĐCS của ông có thể nắm chắc
được ngay từ đầu. Do đó, những
người lãnh đạo chủ chốt QTCS từ
trước đến sau phần lớn đều là cán
bộ của ĐCS bolshevik Nga hoặc là những tay chân
trung thành với họ. Chủ tịch đầu tiên
của Ban chấp hành QTCS (từ năm 1919) là Zinoviev,
ủy viên BCT của ĐCS Nga, đến năm 1926 Zinoviev
bị Stalin phế truất, và về sau bị hành
quyết. Còn từ năm 1926 đến năm 1929, chủ
tịch kế nhiệm là Bukharin, cũng là ủy viên BCT
của ĐCS Nga, đến năm 1929 Bukharin cũng
bị Stalin phế truất, và về sau cũng bị hành
quyết. Nguyên tắc tổ chức của QTCS là tập
trung dân chủ. Như vậy, mỗi ĐCS là một phân
bộ (section) của QTCS, phải phục tùng nghiêm ngặt
theo hệ thống dọc đến cấp cao nhất là
Ban chấp hành QTCS, mà ban này thật ra chỉ
là cái dù che đậy
sự lũng đoạn của tập đoàn thống
trị ĐCS Nga trong QTCS. Hơn nữa, tổ chức
quốc tế này bị phụ thuộc hoàn toàn về
mặt tài chính, cán bộ... vào TƯ ĐCS
bolshevik Nga làm cho
nó trở thành một công cụ hoàn toàn
ngoan ngoãn để
thực hiện những ý đồ của họ.
D.Volkogonov
viết: “Ban lãnh
đạo bolshevik tin tưởng một cách cuồng tín
rằng chỉ cần đốt lên ngọn đuốc cách
mạng thế giới ở Nga thì tòa nhà cũ kỹ
rệu rã của nền văn minh nhân loại
giống như túp lều gỗ mục
nát sẽ nhanh chóng bắt lửa và cháy
bùng lên. Khi
đọc diễn văn nhân dịp kỷ niệm năm
thứ nhất thành lập
Đệ Tam Quốc tế tại phiên họp long
trọng của Xô-viết Moskva ngày 6.3.1920, Lenin đã
tuyên
bố: “phải đoan chắc (chữ in
nghiêng của D.V.)
rằng thắng lợi của cách mạng cộng sản
là không thể nào tránh khỏi”. Lãnh tụ
những
người bolsheviks kết thúc bài diễn văn của
ông ta bằng những lời sau đây trong tiếng vỗ
tay hoan hô nhiệt liệt: “... thắng lợi của
QTCS trên toàn thế giới, và trong một thời hạn
không xa lắm – thắng lợi đó đã được
bảo đảm” (14). Phải có một tầm mắt
cận thị và vô trách nhiệm đến kỳ lạ
mới có thể tung ra những lời tuyên bố kêu vang
mà
rỗng tuếch đến thế” (15).
Để gây
đám cháy
“cách mạng” ở các nước, Lenin và những
người bolsheviks đã tung tiền của, vàng bạc
cho các đảng tay chân ở các nước, đồng
thời phái những nhóm “agents” (hoạt động viên)
của mình đem vũ khí,
tài liệu tuyên truyền đến các nước đang
có sự sục sôi trong dân chúng (Hungarie, Đức,
Italia, Ba
Tư (Persia), Ấn Độ, Trung Quốc...), rồi
tổ chức các nhóm khủng bố để khích động
phong trào, hòng lật đổ các chế độ hiện
tồn và thiết lập chuyên chính vô sản, hay
nói theo
từ ngữ thời thượng của họ hồi
đó là “xô-viết hóa các nước”.
Họ
đặc biệt chú ý hai nước láng giềng Hungarie
và Đức đang có biến động. Và
đến tháng 3.1919, nước Cộng hòa xô-viết
Hungarie ra đời do lãnh tụ cộng sản Bela Kun
đứng đầu. Lenin và những người
bolsheviks Nga hân hoan cực độ. Lenin gửi
điện nhân danh đại hội 8 ĐCS bolshevik Nga
chào mừng với những câu như sau: “Đại
hội đảng chúng tôi tin tưởng rằng chẳng
bao lâu nữa chủ nghĩa cộng sản sẽ
thắng lợi trên toàn thế giới. Giai cấp công
nhân
Nga sẽ dốc toàn lực vội vã giúp đỡ các
bạn... Nước cộng hòa cộng sản quốc
tế muôn năm!” . Ông còn gửi điện mật cho
Bela Kun: “Hãy cứng rắn. Nếu trong số bọn xã
hội chủ nghĩa hay bọn tiểu tư sản,
mới theo các đồng chí ngày hôm qua,
mà tỏ ra giao
động đối với chuyên chính vô sản thì
hãy
đàn áp ngay không thương tiếc. Bị xử
bắn - đó là số
phận đúng luật của tên hèn nhát trong chiến
tranh”
(16).
Chưa đầy một
tháng sau ở Bavaria (Đức), một chính phủ do
người cộng sản Evgheni Levine đứng
đầu lên nắm quyền. Chính phủ này gấp rút
tiến
hành những nhiệm vụ cấp bách của chuyên
chính vô
sản: quốc hữu hóa các ngân hàng,
thành lập Hồng
quân, quy định ngày làm việc 8 tiếng, võ
trang giai
cấp vô sản, cô lập giai cấp tư sản. Lenin
cũng vội vàng gửi điện ngay với một
loạt chỉ thị như sau: “... đã võ trang công
nhân
chưa, đã tước võ khí của giai cấp tư
sản chưa, đã tăng gấp đôi, gấp ba
tiền công cho bần nông và lao công chưa,
đã tịch
thu toàn bộ giấy in và tất cả các nhà in
chưa...
đã dồn nhà ở của giai cấp tư sản
ở Munich để cho công nhân dọn đến ở các
nhà giàu chưa... đã bắt con tin của giai cấp
tư sản chưa... đã động viên toàn thể công
nhân để phòng thủ và
để tuyên truyền tư tưởng cho các vùng nông
thôn lân cận chưa?” (17). Lenin gửi những phái
viên
của ông mang theo chỉ thị và những va li vàng
đến ngay những nơi đang “xô-viết hóa” đó.
Ông tin tưởng là cách mạng đã bắt đầu
ở châu Âu, và cho rằng ngọn lửa cách mạng
đang bùng cháy ở Đức. Ông đã bí mật
chuẩn bị một đội quân do Toukhachevsky chỉ
huy để thấm nhập vào Đức, nhưng quân
chưa kịp vào thì cuộc biến động ở
Bavaria đã bị dẹp yên. Điều mong ước
về cách mạng bùng lên ở Đức đã
được Trotsky bộc tuệch nói ra: “...
nước Đức xô-viết thống nhất với
nước Nga xô-viết thì ngay lập tức sẽ
mạnh hơn tất cả các nước tư bản
gộp lại!”. Trong óc của các lãnh tụ cộng
sản Nga hiện lên giấc mơ rõ nét về một “Liên
bang xô-viết Âu châu”, rồi một “Liên
bang cộng sản Thế giới” mà họ
sẽ làm chủ. Chính tay Lenin đã ghi vào lời
mở
đầu của “Hiến pháp Liên Xô” (được công
bố năm 1924) câu sau: “Nhà nước mới
xô-viết là... một bước quyết định
mới trên con đường thống nhất những
người lao động tất cả các nước vào
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Thế giới”.
Xin nhắc lại một lần nữa: thực chất
của PTCSQT là thế đó!
Thế nhưng, cả
ở Hungarie lẫn ở Bavaria, chính quyền xô-viết
đã sụp đổ, và châu Âu, châu Mỹ – nơi
thực tế có giai cấp vô sản – thì yên ổn,
các lãnh
tụ Moskva bèn hướng về phương Đông:
Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên...
Nhưng sau sự kiện Hungarie và Bavaria thì “cuộc
cách
mạng thế giới” mà Lenin đã tiên đoán “rất
thiên tài” cứ tàn lụi dần. May thay cho nhân
loại, cái
mộng tưởng của Lenin và những người
bolsheviks Nga đốt lên đám cháy cách mạng
thế
giới, thành lập “Liên bang xô-viết Âu
châu”, “Liên bang
cộng sản Thế giới” chỉ là ảo mộng còn
nằm lại trên những bài báo, những chỉ thị
của họ mà thời gian đã phủ lên một lớp
bụi dày. Trong lúc đó, đã xảy ra chuyện
oái ăm
của lịch sử: “Liên hiệp Âu châu” với
đủ mọi cơ cấu, kể cả nghị
viện, tòa án, đồng Euro... đang hoạt
động hữu hiệu mà lại không do những
người cộng sản bolsheviks Nga lập ra và không có
chuyên chính của giai cấp vô sản!
D. Stalin đối
với
ĐCS và QTCS
Ở đây,
người
viết sẽ chỉ nói một vài sự kiện cụ
thể làm nổi bật thái độ và hành động
của kẻ độc tài với ĐCS và QTCS, mà không
nhắc đến những quan điểm thường
được tán tụng trên sách báo chính
thức của
ĐCSLX (vì thật ra Stalin chỉ lặp lại những
điều Lenin nói).
Đối với ĐCS:
Khi Lenin
còn sống, Stalin
đã thấy rất rõ toàn bộ tính chất lợi
hại của bộ máy đảng-nhà nước
xô-viết với tính cách một công cụ sắc
bén, ngoan
ngoãn trong tay một nhúm người để thống
trị đất nước và xã hội. Cho nên khát
vọng mãnh liệt nhất của ông là nắm bằng
được bộ máy ấy để thu tóm
được toàn bộ quyền lực tối
thượng trong nước và xã hội. Trên thực
tế, Stalin không đưa ra một quan điểm “lý luận” nào khác những điều ông
đã thừa kế của Lenin về ĐCS và về
chế độ cực quyền xô-viết mà Lenin đã
đặt cơ sở, còn ông thì “hoàn thiện”
chúng
đến cao độ khi trị vì trên một đế
quốc rộng lớn nhất thế giới.
Để nói
về quan
điểm “lý luận” riêng của Stalin về ĐCS,
người ta thường nhắc tới lời tuyên
bố sau đây của ông: “ĐCS cũng là một
loại như giáo đoàn
những chevaliers de l’ordre des Porte-Glaive” (18), (các bản
dịch ra tiếng Việt đều ghi là “đoàn kỵ
sĩ mang kiếm”, không rõ nghĩa lắm, nên xin
phép dùng
nguyên tiếng Pháp với vài lời giới thiệu. - NMC).
Xin nói qua vài nét lịch sử. Giáo
đoàn này gồm
những hiệp sĩ Đức được thành
lập năm 1202 để xâm
chiếm vùng Đông Baltic và sau đó tiến
công vào
lãnh thổ Nga. Tên như thế là do phù hiệu của
họ trên mũ giáp là một thanh kiếm và
thánh giá.
Đến năm 1236, giáo đoàn bị đánh bại
nặng nề và năm 1237 tàn quân nhập vào một
giáo
đoàn khác. Vì thế sự ví von này của
Stalin lộ rõ ý
đồ “quân sự hóa đảng” để
thực hiện âm mưu bành trướng. Điều này
thể hiện rõ nét nhất từ những năm 30
dưới thời Stalin – đảng cộng sản
đã là một “tổ chức quân sự hóa” đến cao
độ và hoàn toàn mất hết những dấu vết
dân chủ ít ỏi còn sót lại trước đây.
Tại hội nghị trung ương đảng hồi
tháng 2.1937, tức là trong thời kỳ đại khủng
bố ác liệt nhất, Stalin tuyên bố: “Trong
đảng ta, có 3-4 ngàn người lãnh đạo cao
cấp, có thể nói đó là hàng tướng
lĩnh
của đảng. Sau đó, là
30-40 ngàn người lãnh đạo trung cấp, đó
là hàng sĩ quan của đảng. Rồi đến
khoảng 100-150 ngàn cán bộ chỉ huy cấp dưới.
Có thể nói đó là những hạ sĩ quan của
đảng” (19). Cố nhiên, tổng tư lệnh
tối cao “đạo quân” đó là Stalin.
Một lời
tuyên bố
khác của Stalin nữa cũng rất đáng
được chú ý vì nó lộ rõ tư tưởng
thật của kẻ độc tài: “ĐCS là công cụ
của chuyên chính vô sản” (20). Công cụ như
thế
nào, sau này lịch sử đã chứng tỏ. Và quan
điểm của Stalin về “chuyên chính vô sản” như
thế nào thì xin bạn đọc hãy suy xét qua
câu nói sau
đây của ông ta mà Boris Bazhanov, cựu thư ký
riêng
của Stalin (từ 9.8.1923 đến 1.1.1928), đã kể
lại trong hồi ký: ngày 17.6.1924, tức là sau đại
hội 12, Stalin đọc báo
cáo ở lớp huấn luyện các bí thư huyện
ủy, ông ta đã nói thẳng rằng: “hiện nay
chuyên
chính vô sản về thực chất được thay
thế bởi chuyên chính của đảng” (21).
Nếu nói trắng ra thì chuyên chính của đảng
có
nghĩa là chuyên chính của một người: Stalin.
Vì thế, ông ta phải chiến đấu để giành
quyền chuyên chính đó.
Sau
đây, chỉ xin nói
đến mấy việc:
a.
Giành cho bằng
được vị thế chính thống để
“nối ngôi” và nắm lấy ĐCS.
Đọc tiểu sử
Stalin, ta thường gặp những nhóm từ
được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần -“Stalin là người bạn chiến đấu
gần gũi nhất của Lenin”, “người học trò
kiệt xuất của Lenin”, “người kế tục
sự nghiệp của Lenin”,
hoặc thường được nghe kể
nhiều về “tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh
tụ” trước cuộc đảo chính tháng 10.1917.
Những điều đó là sự xuyên tạc lịch
sử có dụng ý.
“Tình
bạn vĩ
đại” như thế nào? Sự thật là trước
tháng 10.1917, đối với Lenin thì Dzhugashvili-Stalin chỉ là một người nào
đấy trong đám “những người cách mạng
chuyên nghiệp” mà thôi. Tháng 12.1905, Stalin
đi họp hội
nghị đảng ở Tammerfors và ở đấy có
Lenin đến dự họp. Trước tháng 10.1917,
cũng có vài lần Stalin được đi dự
đại hội đảng và có gặp Lenin, nhưng
Lenin cũng chẳng để ý. Thế mà sau này (1931), Stalin lại “phịa” là: “Bao
giờ cũng vậy, mỗi lần tôi đi ra
nước ngoài để gặp Lenin – hồi năm 1906,
1907, 1912, 1913...” (22). Hồi năm 1915, Lenin cũng
chỉ nhớ mang máng ai đó có bí danh
là “Koba” ở trong
nhóm khủng bố của đảng bolshevik vùng Caucase. Ông
nhớ vì có một việc “động trời” hồi
năm 1907 ở thành phố Tiflis (sau này là Tbilisi),
Koba
(tức là Dzhugashvili-Stalin) đã tham gia
cùng Kamo một vụ ăn cướp tiền
lớn (những người bolsheviks gọi những
cuộc ăn cướp này là “tước đoạt” –
dựa theo khẩu hiệu của Marx “tước
đoạt kẻ đi tước đoạt”) đến 350 ngàn
rúp để
“làm tài chính” cho đảng bolshevik. Hồi đó,
những
người bolsheviks ở Gruzia (còn gọi là Georgia)
nhiều lần đã làm việc “tước đoạt”
như thế, nhưng vụ năm 1907 là lớn
nhất. Để hiểu rõ
hơn sự thật về “tình bạn vĩ đại”
giữa Lenin và Stalin, xin trích dẫn một bức thư
của Lenin gửi Zinoviev hồi năm 1915 đăng trong
tập 49 bộ Lenin Toàn tập, trong thư Lenin hỏi
Zinoviev: “Anh có nhớ họ của Koba không?”.
Zinoviev
viết thư trả lời là không biết. Lúc đó Lenin
mới viết thư cho Karspinsky để hỏi về
điều đó: “Tôi thiết tha yêu cầu anh tìm
hiểu (có thể hỏi qua Stepko hay Mikha và v.v...) họ
của “Koba” (Iosip Dz... ?? Chúng tôi quên
mất)...” (23). Tài
liệu lịch sử đó cho thấy “tình bạn vĩ
đại giữa hai lãnh tụ” trước tháng 10.1917
chỉ là huyền thoại, dù rằng giữa hai
người sau đó thỉnh thoảng cũng có trao
đổi thư từ với nhau.
Cả sau khi
những
người bolsheviks đã cướp được chính
quyền, “tình bạn vĩ đại” đó giữa hai
“lãnh tụ” cũng không có. Đây là một sự
việc
nữa mà ban lãnh đạo cộng sản Liên Xô cứ
giấu kín mãi cho đến ngày khai mạc đại
hội 20 (1956). Khi Lenin bị ốm nặng, Stalin cho tay
chân theo dõi sát “người thầy vĩ đại”
của mình, thậm chí đưa cả vợ là Nadezhda
Allilueva đến làm thư ký riêng cho Lenin. Biết Lenin hồi đó đang viết
“cái gì đấy” có lẽ là không có
lợi cho mình, Stalin
lấy cớ Lenin ốm nặng, đưa ra BCT
thông qua nghị quyết
hạn chế việc thông báo tình hình
chính trị cho Lenin,
hạn chế việc ghi chép giúp Lenin những điều
do ông đọc ra... Có một lần, ngày 21.12.1922, Lenin
muốn viết thư cho Trotsky, ông mới nhờ vợ là
Krupskaya ghi bức thư ngắn do ông đọc. Bà vợ
đã cẩn thận xin phép bác sĩ của Lenin rồi
mới làm việc này. Đến khi Stalin biết được,
Stalin đã mắng Krupskaya một trận cực kỳ thô
bỉ, lại còn dọa trừng trị bằng kỷ
luật đảng. Ngày 23.12.1922, Krupskaya viết thư cho
Kamenev và Zinoviev – theo lời bà – “là những
người
bạn gần gũi nhất của Ilich” (tức là Lenin –
NMC) để cầu cứu sự bảo vệ. Hai tháng
rưỡi sau, Lenin biết được chuyện này,
ngày 5.3.1923, ông đã viết thư cho Stalin một bức
thư với lời lẽ như sau: “... Tôi không thể
dễ dàng quên được việc đó, và chẳng
cần nói gì thì đồng chí cũng phải hiểu
là
những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống
lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí
cân
nhắc xem đồng chí có sẵn sàng rút lui những
lời đã nói và xin lỗi vợ tôi hay là
muốn
đoạn tuyệt mọi quan hệ giữa chúng ta”
(24).
Không
phải là “bạn”
của Lenin, cũng không phải là một trong những lãnh
tụ nổi bật nhất của đảng bolshevik,
thế thì tại sao “quyền trượng” lại
“lọt” vào tay Stalin sau khi Lenin qua đời? Đây là
một vấn đề lịch sử với nhiều
tình tiết. Nhưng trong phạm vi bài này chỉ xin
đề cập tới những vấn đề liên quan
đến phương diện tổ chức của
ĐCS mà thôi.
Hồi
còn sống, Lenin
không có chức vụ gì khác trong đảng,
ngoài chức
vụ ủy viên BCT, còn về mặt chính quyền ông
là
chủ tịch Hội đồng dân ủy. Nhưng ông là
cha đẻ của ĐCS bolshevik, nên về mặt tinh
thần ông có vị trí cao nhất trong đảng và
ông cứ
mặc nhiên sử dụng cái vị thế đó. Lãnh
tụ đứng thứ hai sau Lenin hồi đó là Trotsky.
Kamenev và Zinoviev cũng là những lãnh tụ được
Lenin đánh giá cao, Kamenev là ủy viên BCT,
phó chủ tịch
Hội đồng bộ trưởng dân ủy, Zinoviev là
ủy viên BCT, chủ tịch Ban chấp hành (BCH) QTCS. Còn
Stalin, vào cuối đời Lenin, đã được
bầu làm tổng bí thư TƯ đảng vào ngày
3.4.1922.
Nhưng hồi đó chức vụ tổng bí thư chỉ
có chức năng tổng
hợp các vấn đề để đưa ra BCT
giải quyết và điều khiển bộ máy hành chính,
văn phòng của TƯ. Lenin
cần một người tổ chức công việc
của bộ máy TƯ đảng. Vì quan niệm chức
năng của tổng bí thư như thế, nên chính
Kamenev và Zinoviev đã nhường cho Stalin chức vụ
đó. Nhưng khi Stalin đã là tổng bí thư
trung
ương đảng rồi thì ít lâu sau, Lenin lại
thấy rất lo ngại, ông muốn đại hội 13
đưa Stalin ra khỏi chức vụ tổng bí thư,
thay bằng một người khác. Dù đang bị ốm
nặng, hồi tháng 12.1922, đã Lenin đọc cho thư
ký viết một bức thư gửi đại hội
đảng và yêu cầu chỉ được bóc ra sau khi
ông chết, vì thế sau này người ta gọi nó
là “di
chúc chính trị của Lenin”. Trong thư có đoạn
viết: “Stalin là người thô lỗ quá đáng,
và
nhược điểm này – hoàn toàn có thể chịu
đựng được giữa chúng ta với nhau và
trong quan hệ giữa những người cộng
sản – nhưng không thể chấp nhận
được trong cương vị tổng bí thư
đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng
chí hãy suy nghĩ để chuyển Stalin ra khỏi
trọng trách ấy. Hãy cử vào vị trí của
Stalin
một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn
Stalin: kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, lịch
sự hơn và chu đáo hơn đối với các
đồng chí, tính khí ít thất thường hơn,
v.v...”
(25).
Khi Lenin qua
đời,
chức vụ tổng bí thư đã ở trong tay Stalin,
nên việc đầu tiên ông ta phải làm là
làm sao giành
được vị thế “chính thống” để
được “nối ngôi”. Muốn thế phải
gạt cho được nhân vật thứ hai sau Lenin ra
khỏi việc tổ chức và tiến hành tang lễ
của Lenin. May cho Stalin là khi Lenin chết, Trotsky đang
còn
bận công tác ở miền Nam nước Nga. Stalin ra
lệnh điện cho Trotsky báo sai ngày cử hành tang lễ
cốt để Trotsky về Moskva sau khi tang lễ đã
xong. Stalin quyết định làm những nghi lễ vô cùng
trọng thể và ông giành được việc
đọc diễn văn trong tang lễ để xác
nhận trước toàn đảng, toàn dân sự thừa
kế chính thức ngôi vị của Lenin. Trong việc
kế vị này, Stalin tỏ rõ là người hiểu
biết trình độ văn hóa thấp kém và tâm
lý sùng bái
lãnh tụ của đảng viên và dân chúng
Nga. Trong bài
diễn văn trước thi hài Lenin, Stalin lặp đi
lặp lại đến bảy
lời thề theo một lối rất “tôn giáo” gây
xúc động cho nhiều người (chắc nhiều
người còn nhớ, năm 1969, Lê Duẩn cũng
bắt chước Stalin đọc năm lời thề
với văn phong y hệt như vậy trước quan
tài Hồ Chí Minh), nên trước mắt dân
chúng và toàn
đảng, ai cũng mặc nhiên thấy ngay chính Stalin là
người có tư cách “chính thống” duy nhất
để nhận lãnh “quyền trượng” và “ngai vàng”
trên đất nước Nga. Đến khi Trotsky trở
lại Moskva thì mọi việc đều đã an bài
đâu vào đấy rồi: Stalin đã thâu tóm
toàn bộ
quyền lực trong tay mình.
Cố
nhiên, Stalin còn
phải đối phó với bức thư của Lenin
gửi đại hội 13 của đảng.
Trước đây, Lenin đã phòng trước sự theo
dõi của Stalin, nhưng ông không ngờ là người
nữ thư ký L.Fotieva của ông lại là tay chân
của
Stalin. Lenin đã dặn dò bà ấy và Krupskaya
phải
tuyệt đối giữ bí mật bức thư, chỉ
bóc nó và đưa ra khi đại hội đảng khai
mạc. Nhưng Fotieva đã kịp báo ngay cho Stalin về
nội dung bức thư. Thế là với sự
“lèo lái” khéo léo của Stalin, hội
nghị TƯ đảng dưới sự chủ tọa
của ông, họp ngày 22.5.1924 đã quyết định
không đưa “thư gửi đại hội” ra thảo
luận ở đại hội 13 nữa. Trước
đó, Stalin còn “đóng kịch” vờ vĩnh xin từ
chức tổng bí thư đề mọi người nài
kéo ông ta ở lại.
Khi đã
nắm toàn bộ
quyền lực rồi, Stalin tìm mọi cách làm cho dư
luận trong và ngoài
đảng đều coi ông là người bạn
chiến đấu gần gũi nhất của Lenin
từ những năm đầu tiên xây dựng
đảng và là người duy nhất hợp pháp
để kế tục sự nghiệp của Lenin,
đồng thời tìm mọi cách thanh trừng các
địch thủ của ông, thậm chí tiêu diệt
họ cả về thể xác và đưa tay chân của
mình vào cơ quan lãnh đạo tối cao của
đảng.
b. Biến ĐCS
thành công cụ hoàn
toàn ngoan ngoãn trong
tay Stalin
Có một
số
người cộng sản nghĩ rằng giá như sau khi
Lenin qua đời, quyền bính lọt vào tay người
khác thì chế độ xô-viết đã không phải
là
chế độ chuyên chế cực quyền đảng
trị khủng khiếp như vừa qua, và lịch sử
nước Nga đã không ghi tên kẻ độc tài
đẵm máu Stalin-Dzhugashvili. Không phải thế! Với
một ĐCS dựa trên một ý thức hệ như
thế, tổ chức theo những nguyên tắc như
thế, với mục tiêu và phương pháp hành
động như thế thì
không thể nào không đẻ ra chế độ
độc tài toàn trị, không thể nào không
đẻ ra
những tên độc tài đẵm máu. Nếu không
có
một Stalin-Dzhugashvili thì sẽ có một “stalin”
khác, có
thể không khát máu bằng Stalin-Dzhugashvili, nhưng
vẫn
là một kẻ độc tài chính cống. Vả lại,
cũng cần nói thẳng rằng chính Lenin cũng là
một kẻ độc tài độc ác đầu tiên
đã đặt nền móng cho chế độ cực
quyền toàn trị cộng sản để Stalin thừa
kế.
Sau khi
chính thức kế
thừa ngôi vị của Lenin, việc đầu tiên Stalin
làm là nắm chắc ngay bộ máy đảng và bộ
máy
công an mật vụ (hồi đó vẫn gọi là Vecheka,
về sau mới đổi tên nhiều lần). Rồi
Stalin dựa vào bộ máy công an mật vụ đó
để vu khống, bao vây, đàn áp, triệt hạ
dần các cán bộ cốt cán của ĐCS dưới
thời Lenin, đồng thời là những địch
thủ của ông trong đảng. Stalin dùng chiến
thuật liên kết với một số người
để cô lập và đánh đổ từng đối
tượng, rồi đưa tay chân mình vào thay thế
chỗ trống, sau đó quay lại hạ uy thế
những người vừa mới liên kết, rồi
đánh đổ họ, cứ như thế đến
khi bộ máy đảng-nhà nước thật sự
trở thành “công cụ” riêng của ông. Đối với
các địch thủ, Stalin không chỉ đánh đổ
họ về mặt chính trị, mà thường tìm cách
tiêu
diệt cả về thể xác để trừ hậu
họa. Trong thời kỳ đầu, TƯ đảng,
cũng như đại hội đảng họp
tương đối đều đặn vì Stalin
cần dựa vào danh nghĩa đảng, dùng sức
mạnh toàn đảng để triệt hạ
địch thủ của mình.
Hỏa lực đại
pháo trước tiên tập trung vào nhân vật đứng
thứ hai sau Lenin, tức là Trotsky, “đại công thần”
đã từng gánh vác những việc nặng nề
nhất để dựng lên chế độ
xô-viết.Trotsky từng làm bộ trưởng ngoại
giao, bộ trưởng quốc phòng và hải quân, chủ
tịch Hội đồng quân sự cách mạng,
người thành lập Hồng quân. Mấy kỳ
đại hội liền kể từ đại hội
13 (5.1924), 14 (12.1925), 15 (12.1927) Stalin đều nhằm
triệt hạ Trotsky – đến năm 1926 Trotsky đã
bị khai trừ khỏi đảng, năm 1928 - bị
trục xuất khỏi Liên Xô. Để đánh Trotsky,
Stalin lúc đầu liên kết với Kamenev và Zinoviev,
hai
ủy viên BCT. Khi Trotsky đã bị đánh bại về
chính trị rồi, thì ngay trong năm 1926, đến
lượt Zinoviev, lúc bấy giờ là ủy viên BCT,
chủ tịch đầu tiên của BCH QTCS:
Zinoviev bị ghép chung vào
khối với Trotsky để đánh tại đại
hội 15 (1927). Triệt hạ xong Zinoviev, Stalin lại quay
ra đánh Kamenev. Đến năm 1926, ba ủy viên BCT
dưới thời Lenin, là Trotsky, Kamenev và Zinoviev,
đã
vĩnh viễn rời khỏi võ đài chính trị.
Cũng năm đó Dzherzhinsky qua đời. Còn
lại Bukharin,
người
được Lenin
gọi là “con cưng của đảng”. Khi vị thế
của Stalin vững vàng rồi thì đến lượt
Bukharin, ủy viên BCT, chủ tịch BCH QTCS (thay thế
Zinoviev từ năm 1926) bị đánh. Về sau cả ba
“đại công thần” nữa là Kamenev, Zinoviev và
Bukharin
đều bị hành quyết trong cuộc đại
khủng bố, còn Trotsky thì Stalin phái tay sai
ám sát tại
Mexico hồi năm 1940. Stalin đưa vây cánh của mình
hết lớp này đến lớp khác vào các cơ quan
lãnh
đạo của bộ máy đảng-nhà nước. Cứ
thế, những cán bộ bolsheviks
của đảng Lenin, những “đại công
thần” đã dựng lên bộ máy đảng-nhà
nước và chế độ cực quyền xô-viết
chưa hoàn toàn chịu khuất phục hoặc không
chiếm được lòng tin của vị chúa tể
mới, thì cứ lần lượt hết lớp này
đến lớp khác đều bị triệt hạ.
Cố nhiên, có phản ứng chống lại. Nhưng vì
nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng-nhà
nước loại trừ mọi tính chất dân chủ,
nên bất cứ sự phản ứng nào của những
người trung thực cũng đều bị vu
khống, bị quy kết vào những tội danh “chết
người” và bị đàn áp khủng bố vô cùng
ác
liệt. Bộ máy công an mật vụ được
“bật đèn xanh” để vu khống, tra tấn,
đánh lừa, dựng lên những hồ sơ giả
mạo, rồi bày ra những vụ án khủng khiếp
trong “cuộc đại khủng bố” hồi
những năm 1937-1938 và hành quyết nhiều ủy viên
BCT, nhiều cán bộ đảng viên là “đại công
thần” của chế độ xô-viết.
Cần
nói thêm về
sự kiện này, vì nó là nguyên cớ cho
trận đại
khủng bố nói trên. Tại đại hội 17
của đảng (tháng 1-2.1934), một số cán bộ
kỳ cựu của đảng Lenin đã cố làm
một hành động, mà nhiều nhà sử học coi
như là trận đánh quyết định chống Stalin
và phe cánh: một nhóm đại biểu trong đại
hội, do B.Sheboldaev và I.Vareikis thay mặt, đã đề
nghị S.Kirov ra ứng cử vào chức vụ bí thư
TƯ đảng, họ đề nghị bỏ chức
vụ tổng bí thư và chuyển Stalin vào chức vụ
chủ tịch Hội đồng dân ủy. Theo lời
của A.Mikoyan kể lại tại đại hội 20
(1956), Kirov đã thẳng thắn báo trước chuyện
đó cho Stalin, mặc dù vậy Stalin càng thêm
nghi ngờ
Kirov. Tại đại hội 17, Stalin và phe cánh đã
dùng OGPU (tên của cơ quan
công an mật vụ thời đó - NMC) để theo dõi
đại hội đảng. Đến khi bầu các
cơ quan lãnh đạo thì Stalin là người bị
phiếu chống nhiều nhất. Cũng theo lời
Mikoyan, khi kiểm phiếu thấy thế, chủ tịch
ban kiểm phiếu là Zatonsky lo lắng, đến báo cáo
ngay với Kaganovich, ủy viên BCT là tay chân của
Stalin.
Kaganovich cương quyết ra lệnh chỉ
được ghi ba phiếu chống Stalin mà thôi. Theo
lời của Mikoyan và Shatunovskaya, một phần số
phiếu đã bị Kaganovich lấy mất, không còn trong
hồ sơ đại hội nữa. Sau đại
hội 20, ủy ban điều tra của BCT báo cáo là trong
hồ sơ đại hội thiếu mất 166
phiếu, như vậy chứng tỏ là có kẻ muốn
phi tang việc gian lận phiếu bầu. Một số
đại biểu hồi đó còn sống sót khai rằng
đại hội đã dành sự tín nhiệm cao nhất
cho Kirov. Rõ ràng đây là sự gian lận trắng
trợn
nhất trong lịch sử các ĐCS, chứng tỏ tên
độc tài đã coi ý chí của đại hội – cơ quan cao nhất của đảng
– chẳng ra cái gì cả!
Một vấn đề
cấp bách đặt ra cho kẻ độc tài - muốn
nắm giữ quyền lực thì phải trừ ngay
kẻ cạnh tranh. Ngày 1.12.1934, Kirov bị ám sát ở
Leningrad. Kẻ sát nhân trực tiếp bắn vào Kirov
là
Leonid Nikolaev bị bắt và xử tử. Vợ, anh em,
bạn bè của y cũng bị giết sạch. Kẻ
thủ mưu vụ này thì... không ai biết
được! Vụ này mãi mãi vẫn còn là một
“mảng tối” của lịch sử. Tuy nhiên, điều
rõ ràng là Stalin đã lợi dụng ngay vụ
ám sát này
để dựng lên một loạt “vụ án” chính
trị, đem xử công khai hàng loạt ủy viên BCT,
ủy viên TƯ và cán bộ cao cấp dưới thời
Lenin, dựa trên những hồ sơ và bằng chứng
giả mạo. Stalin cho phép tra tấn để lấy
khẩu cung, lập hồ sơ, rồi tự mình phê
duyệt án tử hình đối với các ủy viên BCT,
như Zinoviev, Kamenev, Radek, Piatakov, Bukharin, Rykov, Tomsky
(ông này
đã tự tử trước), v.v..., hai chủ tịch
và nhiều ủy viên BCH QTCS, nhiều “đại công
thần” của chế độ xô-viết, nhiều tướng
lĩnh (ba nguyên soái là Toukhachevsky, Blucher,
Egorov, nhiều
đại tướng, như Alknis, Bielov, Kachirin, Kork, Ouborevitch,
Eideman, Feldman, Primakov, Putna, v.v... nhiều đô đốc
hải quân, như Orlov,
Viktorov, Sivkov, v.v...) và nhiều cán bộ cấp cao
khác
của đảng-nhà nước và quân đội. Họ
đều bị ghép tội “phản cách mạng”, thậm
chí “gián điệp”, “tay sai của nước ngoài”.
Hàng
triệu cán bộ, đảng viên, những nhà trí thức,
nhân sĩ, nhiều sĩ quan cao cấp, các quân nhân,
những người bình thường đã bị bắt
bớ, bắn giết hoặc bị quẳng vào các
trại tập trung giăng khắp Liên bang xô-viết,
gọi là GULAG. Đấy, Stalin đã trả thù việc
đại hội 17 định phế truất ông ta
như vậy đó.
Trong bản
báo cáo bí
mật tại đại hội 20, Khrutshev đã cho
biết: “Cuộc điều tra cho thấy: 98 người
trong số 139 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết
do đại hội 17 bầu ra, tức là 70%, đã bị
bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những
năm 1937-38)”... và: “Không những các ủy viên
TƯ, mà
đa số đại biểu dự đại hội 17
của đảng cũng chịu chung số phận. Trong
số 1961 đại biểu chính thức và dự bị
thì 1108 người bị bắt và ghép tội phản cách
mạng, tức là hơn một nửa số đại
biểu đại hội (tính chính xác là 56,5% -
NMC). Sự
kiện này tự nó vạch rõ tính chất kỳ
quái và
ngược đời của những lời buộc
tội “phản cách mạng” gán cho đa số đại
biểu đại hội”. Khrutshev đã cho biết là 80%
đại biểu đại hội 17 đã vào
đảng trong thời kỳ bí mật, trước tháng
10 năm 1917, đã tham gia nội chiến, nghĩa là
trước năm 1921, còn về nguồn gốc xã hội
thì 60% là công nhân, lao động. Trên
thực tế, Stalin
đã tiêu diệt ĐCS của Lenin và dựng lên ĐCS
của mình.
Sau cuộc “đại
khủng bố” 1937-1938, ĐCS đã hoàn toàn trở
thành
một công cụ ngoan ngoãn trong tay của Stalin. Từ
đó, chúng ta càng thấy rõ thái độ
trịch
thượng, coi thường của kẻ độc tài
đối với ĐCS. Nếu trước đây, Stalin
thấy cần thiết họp đại hội, họp
TƯ đảng hay BCT tương đối đều
kỳ chẳng qua chỉ để dựa thế vào cái
“cơ chế dân chủ trong nội bộ đảng”
nhằm đè bẹp và tiêu diệt những địch
thủ của mình, còn bây giờ cái gọi là
“sinh hoạt
dân chủ” của ĐCS không còn cần thiết cho ông
ta
nữa: ông đã là chủ của ĐCS rồi. Đây là
một ví dụ rất dễ thấy. Khoảng cách
giữa đại hội 14 và 15 là 2 năm (1925-1927),
giữa đại hội 15 và 16
là 3 năm (1927-!930), giữa đại hội 16 và 17 là 4
năm (1930-1934), giữa đại hội 17 và 18 là 5
năm (1934-1939), giữa đại hội 18 và 19,
đại hội cuối đời của Stalin, là 13
năm (1939-1952). Và hội nghị TƯ đảng thì
rất ít họp, đặc biệt từ hội nghị
TƯ tháng 2.1947 bàn về nông nghiệp mãi đến 5
năm sau, tháng 8.1952 mới có hội nghị TƯ tiếp
theo để bàn về đại hội 19 của
đảng (26). Còn BCT thì hầu như không khi nào
họp
đủ thành phần. Những quyết nghị của
BCT được thực hiện chủ yếu bằng
cách lấy chữ ký các ủy viên dưới văn
bản dự thảo do Stalin sai người chuẩn
bị sẵn. “Dân chủ” kiểu này thì ai mà
dám không “tán
thành” ý kiến của “lãnh tụ”!
Đấy, ĐCS theo
quan
niệm của Marx cuối cùng đã biến hóa (metamorphose)
thành “công cụ”, “kẻ đầu sai” trong tay tên
độc tài thực tế đã ngồi chồm hổm
trên đầu ĐCS. Còn chế độ cộng sản
mà Marx và Engels mô tả và Lenin khẳng định
là
“một triệu lần dân chủ hơn các chế
độ dân chủ tư sản” thì hóa ra là một
chế độ độc tài chuyên chế nhất trong
lịch sử mang nặng tàn dư phong kiến, chế
độ nông nô, thậm chí chế độ chiếm
hữu nô lệ! Người viết không nói ngoa tí
nào. Xin
các bạn cứ nghĩ xem, việc ướp xác lãnh
tụ để tôn thờ, có phải là thứ văn hóa
pharaon thời cổ đại không? Việc bắt hàng 5
triệu người, có năm lên đến 7 triệu
(ở đây, người viết dẫn số liệu
“thận trọng nhất” của các sử gia Nga, còn các
nhà
nghiên cứu nước ngoài thì cho số liệu cao
hơn, thấp nhất là 8 triệu, cao nhất là 15
triệu, còn theo báo cáo của chính phủ Anh
tại Hội
đồng Kinh tế và Xã hội của LHQ ngày 15.8.1950
thì
10 triệu) (27) nhốt vào các
trại tập trung để khai thác triệt để
lao động không công của những tù nhân
này, có phải
là hình thức bóc lột của chế độ chiếm
hữu nô lệ không? Việc tổ chức các tòa
án chính
trị hồi những năm 30, có phải là áp dụng
mẫu mực của các tòa án giáo hội
(inquisition)
thời Trung cổ không? Việc Stalin không cho nông
dân
được có giấy thông hành (tiếng Nga là
passport) để
buộc chân nông dân, không cho rời khỏi
nông thôn có
phải là chế độ nông nô không? Cái kiểu
tôn ty
trật tự trong ĐCS và chế độ xô-viết
với những đặc quyền đặc lợi quái
gỡ nhất, có phải là tàn dư của văn hóa
phong
kiến hay không?
Hồi đầu thế
kỷ 20, Plekhanov đã từng cảnh báo những
người cách mạng Nga rằng trong điều
kiện nước Nga còn lạc hậu, nền công
nghiệp chưa phát triển cao, giai cấp vô sản công
nghiệp chưa trưởng thành mà đòi làm
cách mạng
vô sản thì nhất định không tránh khỏi đưa
đến một chế độ độc tài không
hạn chế. Lời cảnh báo linh nghiệm biết bao
đã bị Lenin và những người bolsheviks gạt
bỏ!
Đối với QTCS
và
PTCSQT:
Càng
ngày Stalin càng thấy rõ
“tiên đoán thiên tài” của Lenin về
cách mạng vô
sản thế giới sắp bùng nổ là chuyện vớ
vẩn, viễn vông. Nhưng ông ta cũng còn cần mạng lưới tay sai ở
các nước, cho nên vẫn gắng gượng duy trì QTCS
trong chừng mực cần thiết cho đường
lối chính trị của ông. Vì thế, tiền, vàng,
châu
báu đổ ra để cấp cho tổ chức này tuy
vẫn tiếp tục như trước, nhưng khối
lượng ngày càng giảm bớt. Hơn nữa, Stalin e
ngại tổ chức này có thể là “hang ổ” cho
những lực lượng đối lập chống
lại ông, vì hai chủ tịch BCH QTCS là Zinoviev
(1919-1926) và
Bukharin (1926-1929) và nhiều cán bộ QTCS đã bị
ông hành
quyết, nên ông cũng muốn sớm kết liễu
tổ chức này. Không phải Stalin không còn
ý định
chinh phục thế giới nữa, nhưng ông tính làm
việc đó bằng cách khác, thông qua cơ quan
công an
mật vụ, mạng lưới gián điệp, cùng
với sự liên hệ trực tiếp với các nhóm
khủng bố, các ĐCS đã hình thành trên
các nước
và được Liên Xô nuôi dưỡng, đào luyện.
Chính Dimitrov, chủ tịch cuối cùng của BCH QTCS
cũng cảm thấy thái độ lạnh nhạt
của Stalin đối với tổ chức mà ông đang
phụ trách, nên cũng “tự nguyện” đề nghị
giảm bớt “chức năng” của QTCS đi.
Đến năm 1943, Stalin vin cớ cần làm yên lòng
các
nước đồng minh để mở rộng
mặt trận chống phát xít, đã tự ý
tuyên bố
giải tán QTCS mà chẳng thấy cần phải tuân theo
“nghi thức dân chủ” của một tổ chức
quốc tế “độc lập”. Còn Dimitrov, chủ
tịch BCH QTCS, thì được chuyển sang làm
trưởng ban đầu tiên của Ban quốc tế
của TƯ ĐCSLX (28). Trong cung cách Stalin giải tán
QTCS, ta thấy rõ toàn bộ tính chất bù
nhìn, bung xung,
đầu sai của tổ chức này.
Đến năm 1947,
Stalin thấy cần có một tổ chức quốc
tế để phối hợp lực lượng
cộng sản thế giới dưới sự chỉ
huy của ĐCSLX, hơn nữa ông ta muốn các ĐCS
cầm quyền, nhất là ở Đông Âu, đều
thống nhất (unification) chế độ của mình
theo một mẫu mực chung, nên mùa thu năm ấy
một tổ chức bao gồm 9 ĐCS Âu châu (Liên Xô, Nam
Tư, Bulgaria, Rumanie, Hungaria, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp
và Ý)
gọi là “Cục thông tin quốc tế” (Kominform)
đã
được lập ra. Có thể nói, Kominform có tham
vọng trong chừng mực nào đó kế tục sự
nghiệp của QTCS (Komintern).
Cái
mẫu mực chung mà
Stalin muốn phổ biến cho các nước dưới
quyền cai trị của các ĐCS cố nhiên là mô
hình
xô-viết. Nhưng Tito và một số lãnh tụ ĐCS
ở Đông Âu ngay từ đầu đã cảm thấy
không thể rập khuôn theo mô hình chế độ
xô-viết được. Gomulka hồi đó đã nói
đến “con đường Ba Lan” tiến tới
chủ nghĩa xã hội; những người cộng
sản Bulgaria cũng nói khéo nước họ là “cộng
hòa nhân dân” chứ không phải là “cộng
hòa xô-viết”; nhà
hoạt động Hungarie Rivai nói: ở Hungarie mà tính
chuyện thành lập nông trang tập thể (kolkhoz),
tức là “việc làm của
bọn khiêu khích và phá hoại”... Một điều
nên
nhắc lại là sau thế chiến thứ hai, uy tín
của Tito và ĐCS Nam Tư (tên
chính thức là Liên minh những người cộng sản
Nam Tư) rất lớn, chỉ đứng sau Stalin và
ĐCSLX mà thôi. Vì ĐCSNT dưới sự lãnh đạo
của Tito đã kiên cường “đơn thương
độc mã” chiến đấu chống quân phát xít
Đức-Ý và tự mình giải phóng đất
nước. Cho nên lúc đầu trong Kominform ảnh
hưởng của ĐCSNT khá lớn. Điều đó,
cố nhiên, không làm Stalin
thích thú. Hơn nữa, Stalin muốn ép Nam Tư rập khuôn theo mẫu mực
xô-viết của mình và gặp phải sự chống
đối của Nam Tư. Đó là nguồn gốc sâu xa
của những xung đột giữa Stalin và Tito,
giữa hai ĐCS và hai nước Liên Xô và Nam Tư.
Tháng 6.1948, dưới sự đạo diễn của
Stalin, Kominform đã họp ở Bucarest gồm đại
biểu 8 ĐCS (Nam Tư không đến họp)
để buộc tội những người lãnh
đạo ĐCSNT là theo “chủ nghĩa dân tộc” và khai
trừ ĐCSNT ra khỏi Kominform. Về sau Stalin còn mở
một chiến dịch lớn bôi nhọ “bè lũ xét
lại Nam Tư đứng đầu là Tito”, thậm chí
vu khống Tito là “gián điệp”, “tay sai của đế
quốc”. Hầu hết các ĐCS trên thế giới đã
hùa theo Stalin và Kominform để chống Tito và
cô lập Nam
Tư. Thế nhưng, Nam Tư vẫn tồn tại, còn
Kominform, một tổ chức bị bại liệt
bẩm sinh, không có sức sống, nên lần hồi đã
lặng lẽ chết không kèn không trống (29).
Dù
QTCS không còn nữa mà
Kominform thì èo uột, nhưng Stalin vẫn dựa vào uy
lực cá nhân của mình cũng như sức mạnh quân
sự của Liên Xô để điều khiển các
ĐCS “đàn em” và cố sức mở rộng phạm vi
ảnh hưởng của đế quốc cộng
sản. “Bàn tay Moskva” đã can thiệp vào việc nội
bộ và nhen nhóm các cuộc nội chiến ở Thổ
Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, v.v... đã dựng lên cái gọi
là
“chế độ dân chủ mới” với những chính
phủ bù nhìn ở Đông Âu, Bắc Triều Tiên,
đã
giúp chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở
Trung Quốc, Việt Nam, v.v...
Cũng
nên nhắc
đến mưu đồ của Stalin và Mao Trạch
Đông gây ra chiến tranh Triều Tiên hồi năm 1950
với mưu đồ thôn tính Nam Triều tiên đã gieo
rắc biết bao tang tóc, xương máu cho người
dân. Đó là chưa nói đến việc Stalin hồi
đầu thập niên 50 đã có một kế hoạch
chuẩn bị tấn công “giải phóng” châu Âu
mà nhà
sử học Tiệp Khắc Karel Kaplan đã phát giác trong
sách “Dans les Archives du Comité Central. Trente ans de
secret du Bloc
soviétique” (tr.165-167). Cuối những năm 40, Stalin nhận
định tình hình thế giới và đi đến
kết luận: nửa đầu thập niên 50 sẽ là
thời điểm thuận lợi nhất để giáng
một đòn quyết định vào châu Âu tư bản
chủ nghĩa và thiết lập ở đấy chế
độ xã hội chủ nghĩa. Để thực
hiện âm mưu này, cần phải kiềm chế
được Hoa Kỳ, và Liên Xô ra sức chạy đua
võ trang trong lĩnh vực nguyên tử, đến năm
1949 Liên Xô đã có được bom nguyên tử.
Theo tài
liệu bí mật lưu trữ ở ĐCS Tiệp
Khắc mà Kaplan công bố thì hồi tháng 1.1951,
Stalin, Molotov
đã họp bí mật với lãnh tụ và chỉ huy
quân
sự cao cấp những nước cùng phe ở Đông
Âu bàn về việc chuẩn bị trong vòng 3-4 năm
thực hiện kế hoạch tấn công “giải phóng”
châu Âu (30). Về điều phát giác của Kaplan
thì kẻ
viết bài này không đủ điều kiện để
xác minh, nhưng cũng xin nói rõ là: căn cứ
theo tài
liệu lịch sử thì đúng là hồi tháng 1.1951,
đã
một cuộc hội nghị quan trọng có mặt các
tổng tham mưu trưởng và bộ trưởng
quốc phòng các nước “dân chủ nhân dân” Âu châu mà Stalin đã
tự thân tham
dự để kiểm điểm tình trạng sẵn
sàng chuẩn bị của lực lượng võ trang các
nước này, và tại hội nghị đó Stalin đã
khẳng định là chỉ có thể có được
một thời kỳ “tạm nghỉ” 3-4 năm mà thôi
để chuẩn bị cho trận chiến đấu
mới, vì ông cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên
mới chỉ là cuộc thử sức đầu tiên
của hai địch thủ. Trước khi kết thúc
hội nghị, người ta đã ký một hiệp
định bí mật, theo đó khi xảy ra chiến tranh,
các đồng minh của Liên Xô có trách
nhiệm phải chuyển
giao quân đội của mình dưới quyền chỉ
huy trực tiếp của bộ chỉ huy xô-viết.
Đồng thời, người ta cũng đã duyệt
lại một cách căn bản các kế hoạch kinh
tế của các nước “dân chủ nhân dân” nhằm
tăng cường phát triển hơn nữa công
nghiệp nặng và công nghiệp quân sự (chính
việc
này đã gây ra sự mất cân đối trầm trọng
sau này trong nền kinh tế của các nước này,
nhất là đối với nông nghiệp và sản
xuất hàng tiêu dùng). Công việc đang khai
triển thì
đến tháng 3.1953, Stalin chết, nếu không thì những
kế hoạch phiêu lưu của kẻ độc tài
sẽ còn gây thêm biết bao núi xương và
sông máu nữa
cho nhân loại để thực hiện mục tiêu
cuối cùng của PTCSQT.
E. “Cống
hiến”
của Mao Trạch Đông vào việc xây dựng ĐCS
Sau những
trận tranh
quyền quyết liệt trong nội bộ ban lãnh
đạo, cuối cùng Mao Trạch Đông đã giành
được quyền lực trong ĐCS hồi năm
1935. Việc đầu tiên họ Mao nghĩ đến
là làm sao nắm
chắc được “công cụ đảng” trong tay mình.
Sống trong hoàn cảnh một nước Á châu không
có chút
truyền thống dân chủ nào mà mang nặng văn
hóa phong
kiến, Khổng giáo, Mao và phe cánh hiểu được
sự cần thiết phải khai thác triệt để
đầu óc sùng bái và tuân phục của thần
dân
đối với “thiên tử”, cho nên đã đặc
biệt coi trọng việc “tẩy não” và “nhồi sọ”
trong đảng, quân đội và trong dân chúng. Điều
đó họ gọi là “công tác tư tưởng”,
với mục tiêu làm cho mỗi đảng viên cộng
sản, cũng như mỗi thần dân trong chế
độ “xã hội chủ nghĩa” mất hết cá tính,
mất hết năng lực và thói quen tư duy độc
lập, làm cho toàn ĐCS, toàn dân Trung Quốc
sùng bái,
thần thánh hóa đến độ cuồng tín để
biến trên 600 triệu người sẽ trở thành
một “công cụ” dễ bảo, một cái “đinh ốc
bé tí” trong tay họ Mao và ĐCS. Để đạt
được cái mục tiêu đó, Mao và phe cánh đưa ra một phương
pháp gọi là “chỉnh phong”. Qua quá
trình “chỉnh
phong”, đảng (và cả công an mật vụ) nắm
được “tư tưởng” của đảng viên,
đoàn viên, cán bộ, quân nhân... để tiến
hành
“đấu tranh tư tưởng” và “cải tạo tư
tưởng” cho những người bất đồng
chính kiến. Thông thường những cuộc chỉnh
phong đều kèm theo những cuộc đấu đá,
xỉ vả, lăng nhục, đày ải cán bộ, trí
thức về nông thôn
để “lao động cải tạo” hay thậm chí
bắt bớ, tù đày cán bộ, trí thức trong
các
“trại lao cải”, một kiểu GULAG made in China.
Chỉnh phong là “cống hiến” độc đáo nhất
của họ Mao vào “kho tàng chủ nghĩa Marx-Lenin” mà
nhiều ĐCS châu Âu, châu Mỹ không thể nào
hiểu
nổi và học nổi!
Họ Mao
còn có một “sáng
kiến” nữa là khi cần đấu tranh giành và giữ
quyền lực, ông ta không ngần ngại huy động
quần chúng cuồng tín chống lại ĐCS: khi phát
động làm “đại cách mạng văn hóa” ông
đã cho “hồng vệ binh” “tạo phản” nã súng bắn
vào đảng mà ông ta gọi là “bộ tham mưu
xét
lại, hữu khuynh”. Về thực chất cũng như
hậu quả, cuộc “đại cách mạng văn hóa”
của Mao không khác mấy cuộc “đại khủng
bố” 1937-1938 của Stalin.
Còn
tiếp...
Tài
Liệu Tham Khảo:
1.
Marx K. và Engels F. Tuyên ngôn của
Đảng Cộng Sản. NXB Sự Thật, Hà Nội,
1983, tiếng Việt, tr.66. (ở tr.16).
2.
Sách đã dẫn, tr.66. (ở tr.18).
3.
Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.18).
4.
Sách đã dẫn, tr.65. (ở tr.19).
5.
Razinsky Edvard. Stalin.Moskva, 1997, tiếng Nga,
tr.54, 64-69. (ở tr.22).
6.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 6, tiếng
Nga, tr.112. (ở tr.23).
7.
Sách đã dẫn, tr.124. (ở tr.23).
8.
Sách đã dẫn, tr.122, 125. (ở tr.24).
9.
Sách đã dẫn, tr.136. (ở tr.24).
10.
Sách đã dẫn, tr.178. (ở tr.24).
11.
Lenin và Vecheka, 1975. tiếng Nga, tr.281.
(ở tr.27).
12.
Sách đã dẫn, tr.363. (ở tr.27).
13.
Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, tập 1, tr.272-273, 289-290. (ở
tr.29).
14.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 40, tiếng
Nga, tr.209, 211. (ở tr.31).
15.
Volkogonov D. Lenin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, tập 2, tr.271. (ở tr.31).
16.
Sách đã dẫn, tập 2, tr.276, 278.
(ở tr.32).
17.
Sách đã dẫn, tập 2, tr.277. (ở
tr.33).
18.
Stalin I.V. Toàn Tập, t.5, tiếng Nga, tr.71.
(ở tr.35).
19.
RSKHIDNI – Trung Tâm Lưu Trữ Văn
Kiện Lịch Sử Hiện Đại (trước là
Kho Lưu Trữ của Quốc Tế Cộng Sản),
Fond 17, Op.12, Document 612, Vyp. III, List 35. (ở tr.36).
20.
Stalin I. “Những vấn đề
của chủ nghĩa Lenin”, M.1945, tiếng Nga, tr. 71.
(ở tr.36).
21.
Bazhanov B. Hồi Ký Của Cựu Thư
Ký Của Stalin, xuất bản ở Pháp 1980, ở Nga 1992,
tiếng Nga, tr.129. (ở tr.36).
22.
Stalin I.V. Tác Phẩm, tập13, tiếng
Nga, tr.121. (ở tr.37).
23.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 49, tiếng
Nga, tr.101 và161. (ở tr.38).
24.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 54, tiếng
Nga, tr.330. (ở tr.39).
25.
Lenin. V.I. Toàn Tập, tập 45, tiếng
Nga, tr.346. (ở tr.40).
26.
Volkogonov D. Stalin. Chân Dung Chính Trị. Hai
tập, 1994. tiếng Nga, t.2, tr.614. (ở tr.48).
27.
Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử
Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.54. (ở tr.49).
28. Medvedev V.
Sự Tan Rã. Nó Đã Chín Muồi Thế Nào
Trong “Hệ
Thống Xã Hội Chủ Nghĩa Thế Giới”. Moskva,
1994, tiếng Nga, tr.19. (ở tr.50).
29.
Giuseppe Boffa. Lịch Sử Liên Xô. tập
2, tiếng Nga, tr.361-363. (ở tr.52).
30.
Geller M. và Nekrich A. Lịch Sử
Nước Nga (1917-1995), tập 2, tr.67, 68. (ở tr.53).
o0o
Danh
Mục
·
Alknis
Ya.I. – đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Allilueva
N.S. - vợ của Stalin, chết trong hoàn cảnh khó
hiểu.
·
Andropov
Yu.V. (1914-84) - đại tướng, chủ tịch KGB LX
(1967-82), tổng bí thư ĐCSLX (1982-84), chủ tịch XV
Tối cao LX từ 1983. Thời ông cầm quyền
được đánh dấu bởi hàng loạt vụ
đàn áp khốc liệt những người bất
đồng chính kiến, tình trạng khủng hoảng
của LX thêm trầm trọng và việc đẩy
mạnh cuộc phiêu lưu quân sự ở Afganistan; ông
có ý
định dùng biện pháp hành chính để ngăn
cuộc khủng hoảng của đất nước.
·
Bazhanov
B. - thư ký riêng của Stalin từ 1923 đến 1928,
đã viết cuốn “Hồi Ký Của Cựu Thư Ký
Của Stalin”.
·
Beliov
– đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Blucher
V.K. (1890-1938) - tướng lĩnh Hồng quân trong nội
chiến, nguyên soái LXâ, bị vu khống và bị
bắt,
chết trong thời gian giam giữ theo quyết
định của Stalin.
·
Borodin
M. – cán bộ của Đảng Cộng sản LX
đứng đầu phái đoàn xô-viết cạnh chính
phủ Trung Hoa Dân Quốc hồi những năm 20. Sau khi
về nước, bị đàn áp dưới thời
Stalin và chết trong nhà tù.
·
Brezhnev
L.I. (1906-82) – ủy viên Bộ Chính trị TƯ từ 1957,
đã tổ chức việc lật đổ Khrutshev
(1964), làm tổng bí thư Đảng Cộng sản LX
(1964-1982). Dưới thời ông, nền kinh tế
xô-viết bị trì trệ và khủng hoảng nặng.
Thời ông cầm quyền được đánh dấu
bởi các vụ đàn áp khốc liệt những
người bất đồng chính kiến, vụ can
thiệp võ trang vào Tiệp Khắc 1968 và cuộc
phiêu
lưu quân sự ở Afganistan 1979.
·
Bukharin
N.I. (1888-1938) - ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1924-29),
chủ bút tờ Pravda (1918-29), chủ bút tờ Izvestia
(1934-37), chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế
Cộng Sản (1926-29), bị vu khống và bị xử
bắn theo quyết định của Stalin.
·
Chernenko
K.U. (1911-85) – ủy viên Bộ Chính trị dưới
thời Brezhnev, nổi tiếng là một người quan
liêu, bất tài, tổng bí thư Đảng Cộng
sản LX (1984-85).
·
Chicherin
G.V. (1872-1936) – bộ trưởng ngoại giao xô-viết
thời Lenin.
·
Dimitrov
G. (1892-1949) – chủ tịch
Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản (1929-43),
tổng bí thư Đảng Cộng sản Bungarie từ
1948, chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Bungarie.
·
Dzerzhinsky
F.E. (1877-1926) - chủ tịch Vecheka từ 1917, một trong
những người xây dựng bộ máy mật vụ và
tổ chức “khủng bố đỏ” khủng
khiếp thời xô-viết.
·
Eberlain
– đại biểu cánh tả Đức đến
dự hội nghị lập Đệ Tam Quốc Tế
1919.
·
Egorov -
nguyên soái LX, bị vu khống và
bị xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Eideman
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Engels
Fredrich (1820-95) - một trong những người sáng
lập ra chủ nghĩa Marx; cùng với Marx và một
số người khác, ông đã lập ra Liên Minh
Công Nhân
Quốc Tế (Đệ Nhất Quốc Tế) hồi
1864 và đã soạn thảo Tuyên Ngôn Của Đảng
Cộng Sản; sau khi tổ chức quốc tế này tan
rã ông là cố vấn cho nhiều Đảng Xã Hội
chủ nghĩa trong Đệ Nhị Quốc Tế.
Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng
lớn đối với trí thức Âu Mỹ hồi
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
·
Feldman
B.M. - đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Fotieva
L.A. - thư ký riêng của Lenin.
·
Ganetsky
Ya.S. (1879-1937) – đảng viên bolshevich nổi tiếng,
trước tháng 10.1917, ở nước ngoài phụ trách
những mật vụ của Lenin và liên lạc với
người môi giới Parvus để nhận tiền
của chính phủ Đức cấp cho Đảng
bolshevich để làm thất bại nước Nga Sa
hoàng,; về sau bị vu khống và bị xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·
Gdlyan
– cán bộ cao cấp Viện Tổng Công tố LX, một
trong những thành viên tích cực của Nhóm
dân biểu liên
vùng.\
·
Gomulka
V. (1905-82) – nguyên tổng bí thư của Đảng
Cộng sản (lấy tên Đảng Công nhân Thống
nhất) Ba Lan (1943-48), 1949 ông bị truất quyền,
rồi bị bỏ tù 1951-55 dưới thời Stalin,
đến 1956-70 lại được đưa lên
đứng đầu Đảng.
·
Gorbachev
M.S. (s.1931) – tổng bí thư
Đảng Cộng sản LX (1985-91), chủ tịch
Chủ Tịch Đoàn Xô-viết Tối Cao LX (1988-89),
Tổng thống LX (1989-90), người khởi
xướng và thực hiện “perestroika” và “glasnost” với
ý muốn đưa đất nước ra khỏi
cuộc khủng hoảng. Điều nổi bật
dưới thời ông cầm quyền là sự chấm
dứt “chiến tranh lạnh”, sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và ngay
chính
ở Liên Xô. Ông được giải thưởng Nobel
Hòa Bình (1990).
·
Hồ
Chí Minh (tên thật Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là
Nguyễn Tất Thành, ngoài ra còn có rất nhiều
bí danh,
bút danh khác) (1890-1969) - nhà cách mạng
cộng sản nổi
tiếng, một trong những người đầu
tiên đưa chủ nghĩa
Marx-Lenin vào Việt Nam; dưới sự lãnh đạo
của ông, cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
đã thắng
lợi đưa chính quyền vào tay Đảng Cộng
sản và cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng
lợi (1954). Thời ông cầm quyền được
đánh dấu bởi cuộc cải cách ruộng
đất khủng khiếp hồi thập niên 50, cuộc
cải tạo công thương nghiệp, vụ án Nhân
Văn – Giai Phẩm, việc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và việc bắt đầu
cuộc chiến tranh ác liệt với miền Nam.
·
Kachirin
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin. tr.46.
·Kadar Janos (1912-89) –
người đứng đầu Đảng Cộng
sản (lấy tên Đảng Xã hội Chủ nghĩa Công
nhân) Hungarie từ 1956-88; thủ tướng chính phủ
Hungarie được thành lập trên đất LX
để thay thế cho chính phủ Imre Nagy bị đánh
đổ.
·
Kaganovich
L.M. (1893-1991) - ủy viên Bộ Chính Trị Đảng
Cộng sản LX (1930-57), một trong những người
tích cực tổ chức các cuộc đàn áp
hàng loạt
người vô tội dưới thời Stalin; cùng với
Molotov, Malenkov chống lại đường lối
của Khrutshev, nên bị đưa ra khỏi cương
vị lãnh đạo Đảng hồi 1957.
·
Kamenev
L.B. (1883-1936) – đảng viên bolshevich, ủy viên Bộ
chính trị Đảng Cộng sản Nga và LX (1919-1926), phó
thủ tướng chính phủ LX (1923-26), bị vu
khống và bị xử bắn
hồi 1936 theo quyết định của Stalin.
·
Kamo
- bí danh của Ter-Petrosyan, người tổ chức các
vụ ăn cướp tiền cho đảng của
Lenin.
·
Kaplan
Karel - sử gia Tiệp
Khắc, tác giả sách “Dans les Archives du Comité
Central. Trente ans
de secret du Bloc soviétique”.
·
Kautsky
Karl (1854-1938) - một trong những lãnh tụ và nhà
lý
luận nổi tíếng của Đảng Xã hội Dân
chủ và Đệ Nhị Quốc Tế, theo chủ
nghĩa trung phái, chống lại đường lối
cực đoan của Đảng bolshevich.
·
Kestler
Artur (1905-83) - nhà văn Anh, tác phẩm nổi tiếng nhất
của ông “Bóng Đen Dày Đặc” (1940) nói về cơ
chế tâm lý của sự khủng bố thời Stalin,
được xuất bản ở LX hồi 1988.
·
Khrutshev
N.S. (1894-1971) - ủy viên Bộ Chính trị (1939-53), từ
1953 đến 1964 đứng đầu Đảng
Cộng sản LX; tại đại hội 20 (1956) và 22
(1961) ông phê phán kịch liệt tệ sùng
bái cá nhân Stalin.
Thời ông cầm quyền được đánh dấu
bởi việc giải phóng cho hàng triệu người ra
khỏi các trại tập trung và minh oan cho rất nhiều
người vô tội trong các vụ án chính trị
dưới thời Stalin, bởi sự cố gắng
đẩy mạnh sản xuất công nông nghiệp và
những nỗ lực để cải thiện
đời sống cho người dân, nhưng đồng
thời cũng bởi việc đàn áp cuộc biểu
tình của công nhân ở Novocherkassk, việc đối
đầu với phương Tây ở Berlin hồi 1961,
ở biển Caribe hồi 1962, bởi cuộc can thiệp võ
trang vào Hungarie hồi 1956. Ông có để lại tập
hồi ký, xuất bản ở Hoa Kỳ 1981, còn ở Nga
xuất bản toàn bộ hồi 1999.
·
Kirov
S.M. (1886-1934) - ủy viên Bộ Chính trị từ 1930,
bị giết 1934. Cái chết của ông bị Stalin dùng
để mở một loạt cuộc đàn áp khủng
khiếp trong thời kỳ gọi là Đại khủng
bố trong những năm 30.
·
Koba
- bí danh của Stalin hồi hoạt động bí mật
ở xứ Caucase.
·
Kork
- đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin.
·
Krasin
L.B. (1870-1955) – nhà lãnh đạo Đảng bolshevich, ủy
viên TƯ Đảng 1903-07, lãnh đạo công tác
quân
sự-chiến đấu trong cách mạng 1905-07; sau tháng
10.1917 làm các chức vụ cao cấp trong bộ máy
nhà
nước.
·
Krupskaya
N.K. (1869-1939) - vợ và bạn chiến đấu của
Lenin.
·
Kun
Bela (1886-1938) - nhà cách mạng Hungarie, người tổ
chức Đảng Cộng sản Hungarie (1918),
đứng đầu chính phủ xô-viết Hungarie hồi
1919; từ 1920 ở nước Nga, ủy viên Ban Chấp
hành Quốc Tế Cộng Sản, bị giết
dưới thời Stalin.
·
La
Văn Lâm (s.1919) – đảng viên lão thành của
Đảng Cộng sản VN, đã giữ nhiều
chức vụ quan trọng của nhà nước, từ
những năm 80 nhiều lần phát biểu ý kiến
về các vấn đề chính trị, về vấn
đề dân chủ.
·
Lê
Duẩn (1900-1986) - nhà cách mạng cộng sản, một
trong những người đã lãnh đạo phong trào
đấu tranh ở miền
Nam chống chế độ VN Cộng hòa; tổng bí
thư Đảng Cộng sản VN từ 1960-86. Thời
ông cầm quyền
được đánh dấu bởi việc đẩy
mạnh cao độ cuộc chiến tranh với miền
Nam, đưa đến sự sụp đổ của
chế độ miền Nam và sự thống nhất
cả nước dưới quyền của những
người cộng sản, bởi việc xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa trại lính
với nền chuyên chế vô sản tàn bạo, những
cuộc đàn áp hàng loạt người dưới
chế độ cũ, đàn áp các giáo phẩm và
các giáo
hội, đàn áp cán bộ, đảng viên, trí
thức
bất đồng chính kiến; nó cũng được
đánh dấu bởi sự đưa quân đánh vào Cam
Bốt và chiếm đóng nước này trong 10 năm, gây
ra xung đột lớn với TQ. Đường lối
của ông đã đưa đến cuộc khủng
hoảng toàn diện của VN hồi cuối thập niên
80.
·
Lenin
V.I. (tên thật Ulyanov) (1870-1924) - nhà lý luận
theo chủ
nghĩa Marx, một trong những người sáng lập và
là lãnh tụ Đảng bolshevich, lãnh đạo cuộc
đảo chính tháng 10.1917, lật đổ chính quyền
dân chủ, thiết lập chuyên chính vô sản với
chế độ cực quyền toàn trị xô-viết.
Với ý đồ làm cách mạng thế giới, phổ
biến chế chế độ xô-viết ra toàn thế
giới, ông đã thành lập Quốc Tế Cộng
Sản (1919). Dưới chế độ chuyên chính vô
hạn của ông, hàng triệu người dân vô tội
đã bị giết.
·
Levine
E. - đảng viên cộng
sản, đứng đầu chính phủ ở Bavaria
hồi năm 1919.
·
Lin,
Linov - một trong nhiều bí danh của Nguyễn Ái
Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này.
·
Malenkov
G.M. (1902-88) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong
những người tích cực tổ chức các cuộc
đàn áp hàng loạt người vô tội dưới
thời Stalin; cùng với Molotov, Kaganovich chống lại
đường lối của Khrutshev, nên bị đưa
ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng
hồi 1957.
·
Mao
Trạch Đông (1893-1976) –
lãnh tụ Đảng Cộng sản TQ, chủ tịch
nước Cộng hòa Nhân dân TQ (1954-59); người xây
dựng chế độ cực quyền toàn trị
khắc nghiệt, ông đề xướng phong trào “công xã
nhân dân” và “đại nhảy vọt” ở TQ để
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Thời ông
cầm quyền được đánh dấu bởi
những cuộc vận động ác liệt,
thường là đẫm máu, như cải cách ruộng
đất, “tam phản”, “ngũ phản”, cải tạo
trí thức, “đại cách mạng văn hóa”... đã
đẩy nền kinh tế, văn hóa TQ đến bên
bờ vực thẳm. Hồi sinh thời của ông,
việc sùng bái cá nhân ông đã
lên cao đến mức
chưa từng thấy.
·
Marx
Karl (1818-83) - người sáng lập ra chủ nghĩa Marx,
đã nêu lên vai trò giai cấp vô sản
toàn thế giới
trong việc đánh đổ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản; tác
phẩm căn bản của ông là bộ “Tư Bản”
nổi tiếng; cùng với Engels và một số người
khác, ông đã lập ra Liên Minh Công
Nhân Quốc Tế
(Đệ Nhất Quốc Tế) hồi 1864 và soạn
thảo Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản. Chủ
nghĩa Marx hồi cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỷ 20 có ảnh hưởng lớn trong giới
trí thức, nhất là ở Âu Mỹ, nhưng dần
dần qua thực tiễn lịch sử trong thế
kỷ 20 người ta đã thấy rõ những sai lầm
của nó.
·
Medvedev
V. - ủy viên Bộ Chính trị TƯ Đảng Cộng
sản LX dưới thời Gorbachev, phụ trách Ban
quốc tế TƯ.
·
Mikoyan
A.I. (1895-1978) –ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1935-66), thuộc giới thân cận Stalin; về sau ông
đã vạch trần tệ sùng bái cá nhân
Stalin.
·
Mitterand
F. (1916-96) – lãnh tụ Đảng Xã hội chủ nghĩa
Pháp, tổng thống Pháp (1981-95).
·
Molotov
V.M. (1890-1986) - ủy viên Bộ Chính trị nhiều năm
(1926-57), thuộc giới thân cận Stalin, một trong
những người tích cực tổ chức các cuộc
đàn áp hàng loạt người vô tội dưới
thời Stalin; cùng với Kaganovich, Malenkov chống lại
đường lối của Khrutshev, nên bị đưa
ra khỏi cương vị lãnh đạo Đảng
hồi 1957. Ông đã ký với Ribbentrov, bộ trưởng
ngoại giao nước Đức, hiệp ước phân
chia đất đai các nước châu Âu giữa
nước Đức
phát-xít và LX.
·
Nagy
Imre (1896-1958) - thủ tướng chính phủ Hungarie
hồi 1953-55 và từ tháng 10 đến tháng 11.1956 sau
là
thành lập ngày 3.11.1956; sau khi quân đội
Liên Xô can
thiệp võ trang dẹp tan cuộc cách mạng nhân
dân
Hungarie, đã bị bắt và bị xử bắn năm
1958; sau khi nước Hungarie
giành lại chủ quyền hồi 1989, ông được
minh oan và coi là anh hùng nhân dân.
·
Nguyễn
Ái Quốc - bí danh của Nguyễn Tất Thành, tức
Hồ Chí Minh sau này.
·
Nguyễn
Minh Cần – xem tiểu sử trên bìa.
·
Nikolaev
L. - người bắn Kirov
năm 1934, bị tử hình.
·
Orlov
- đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo lệnh của Stalin. Ouborevitch -
đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo lệnh
của Stalin.
·
Piatakov
G.L. (1890-1937) - đảng viên
bolshevich, nhà hoạt động nổi tiếng ĐCS và
nhà nước xô-viết, bị vu khống và bị xử
bắn theo quyết định của Stalin.
·
Plekhanov
G.V. (1856-1918) - triết gia, nhà
lý luận của chủ nghĩa Marx, người sáng
lập Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga,
ông không
tán thành cách mạng vô sản theo kiểu của
Lenin vì cho
rằng nước Nga chưa đủ điều
kiện kinh tế, xã hội cho một cuộc cách mạng
như thế.
·
Primakov
- đại tướng LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin. tr.46.
·Pugo B. - bộ
trưởng Bộ Nội vụ LX, một trong những
người lãnh đạo cuộc đảo chính tháng
8.1991 của những phần tử bảo thủ nhất
trong TƯ ĐCSLX, khi đảo chính thất bại thì
tự tử.
·
Putna
- đại tướng LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo quyết định của Stalin. tr.46.
·Radek K.B. (1885-1939) - nhà
hoạt động của Đảng dân chủ xã hội
Ba Lan và Đức, sau là đảng viên Đảng
bolshevich Nga, ủy viên Ban Chấp hành Quốc Tế Cộng
Sản, bị vu khống và bị xử bắn theo
quyết định của Stalin.
·
Rykov
A.I. (1881-1938) – đảng viên bolshevich, nhà hoạt
động nổi tiếng Đảng Cộng sản và
nhà nước xô-viết, ủy viên Bộ Chính trị
TƯ (1922-30), thủ tướng chính phủ LX (1924-30),
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Shatunovskaya
– một trong những đại biểu đã đưa
ra lời chứng tại
đại hội 20 của ĐCS LX về việc
một số phiếu bầu tại đại hội 17
đã bị đánh cắp để gian lận trong
cuộc bầu ban lãnh đạo đảng.
·
Sheboldaev
B. – đại biểu tại đại hội 17 ĐCS
LX đã đề nghị Kirov ra ứng cử vào chức
vụ tổng bí thư, về sau bị đàn áp.
·
Sivkov -
đô đốc hải quân LX,
bị vu khống và bị xử bắn theo quyết
định của Stalin.
·
Stalin
I.V. (tên thật Dzhugashvili) (1878-1953) - nhà cách
mạng cộng
sản nổi tiếng, người kế nhiệm Lenin
làm lãnh tụ LX từ 1924; ông
đã hoàn thiện chế độ cực quyền toàn
trị xô-viết mà Lenin đã khởi đầu.
Dưới chế độ độc tài vô hạn
của cá nhân ông, hàng chục triệu đảng
viên và
những người dân vô tội đã bị giết.
·
Tito
B.I (1892-1980) – lãnh tụ của Liên Minh những
người cộng sản Nam Tư, người
đứng đầu nhà nước Nam Tư; do không
chịu theo khuôn mẫu xô-viết để xây dựng xã
hội Nam Tư, nên bị
Stalin trục xuất Đảng Cộng sản Nam Tư
ra khỏi phong trào cộng sản quốc tế và vu
khống cho ông là gián điệp của đế quốc,
các đảng “anh em” đều hùa theo LX tẩy chay Nam
Tư và đả kích Tito là phần tử xét lại
hiện đại.
·
Tomsky
M.P. (1880-1936) - chủ tịch Công đoàn LX, ủy viên
Bộ Chính trị trong nhiều năm; bị vu khống,
ông bị bắt theo lệnh của Stalin, để không
bị giết, ông đã tự tử.
·
Toukhachevsky
M.N. (1893-1937) - tướng lĩnh nổi tiếng của
Hồng quân trong nội chiến, chỉ huy việc đàn
áp các cuộc nổi dậy ở Kronshtadt và tỉnh
Tambovskaya, thứ trưởng Bộ quốc phòng Liên Xô,
nguyên soái Liên Xô, bị vu khống và bị
xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·
Trotsky
L.D. (tên thật là Bronshtein) (1879-1940) - nhà
cách mạng
cộng sản nổi tiếng, ủy viên Bộ Chính
trị TƯ Đảng Cộng sản Nga và Liên Xô (1917,
1919-26), bộ trưởng ngoại giao (1917-18), bộ
trưởng quân sự (1918-25). Cuộc tranh giành quyền
lực giữa Stalin và Trotsky đã kết thúc bằng
sự thất bại của Trotsky, nên 1927, ông bị khai
trừ ra khỏi Đảng, bị đày đến Alma
Ata, rồi trục xuất khỏi LX (1929). Ông khởi
xướng thành lập Đệ Tứ Quốc Tế
(1938), bị giết bởi tên đặc vụ xô-viết
tên là R.Merkader.
·
Vareikis
I. - đại biểu tại đại hội 17
Đảng Công sản LX đã đề nghị Kirov ra
ứng cử vào chức vụ tổng bí thư, về sau
bị đàn áp.
·
Viktorov
- đô đốc hải quân LX, bị vu khống và bị
xử bắn theo lệnh của Stalin. tr.46.
·Volkogonov D.A. (1928-95) -
giáo sư, tiến sĩ triết học, tiến sĩ
sử học, đảng viên cộng sản, trung
tướng xô-viết, viện sĩ thông tấn Viện
hàn lâm khoa học Nga; ông đã ra khỏi Đảng
Cộng sản LX hồi 1990, trở thành nhà dân chủ
triệt để. Ông đã để lại những tác
phẩm sử học nổi tiếng về Lenin, Trotsky,
Stalin, cũng như về
Khrutshev, Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.
·
Zatonsky
– chủ tịch ban kiểm phiếu tại đại
hội 17 Đảng Cộng sản LX.
·
Zinoviev
G.E. (tên thật là Radomyslsky) (1883-1936) - đảng
viên
bolshevich, ủy viên Bộ Chính trị TƯ (1917-26) từ thời
Lenin, chủ tịch Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng
Sản (1919-26), bị vu khống và bị xử bắn
theo quyết định của Stalin.
·