Xin Ðừng Quên!
NỬA THẾ KỶ
TRƯỚC...
Nguyễn
Minh Cần
Có thể
bạn đọc
sẽ trách tôi: trong dịp đầu năm mà nhắc
đến chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng
thứ cho! Nhưng chuyện này không thể không nói
đến!
Nó cũng khủng khiếp không kém gì chuyện Tết
Mậu
Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng
ta vẫn
phải đành lòng nhắc đến trong dịp Tết
cơ mà!
Cần phải nhắc
đến các tấm bi kịch, các thảm hoạ dân tộc
đã qua và hiện đang còn đang tiếp diễn dưới
nền chuyên chính của Đảng Cộng Sản Việt
Nam (ĐCSVN), để mọi người yêu nước
thương dân thắp một nén hương cho vong linh biết
bao người vô tội đã ngã xuống, để
tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan ức
đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm
hờn mãi mãi, để nhớ lại biết bao bạo
hành của một đảng độc tài đã gây ra
trong quá khứ và trong hiện tại, để mọi
người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc
dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần
lắm thay! Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền
đang cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi
cách để dân tộc ta quên đi các tội ác
tày trời
của họ, nhất là để các thế hệ mới
lớn lên không hề hay biết gì đến các tội
ác
đó và những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện
tôi muốn nói
đến hôm nay là cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
(CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt
Nam, thảm hoạ khủng khiếp chưa từng thấy
trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực
tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953,
đúng 50 năm trước đây, và kết thúc năm
1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn
mãi cho đến tận ngày nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng
khác nào một trận bão táp ác liệt đổ
ập xuống
miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng
khiếp, biết bao đảo lộn kinh người, biết
bao tang tóc, đau thương cho người dân
lương thiện.
Xuất
phát từ đâu
mà trận bão táp ghê rợn đó đã
tràn đến cái xứ
sở đau thương này? Số là trong chuyến đi
bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt
Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu
năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch
Đông (lúc
đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này
đã nhận
xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản
phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến
hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng
động lực cách mạng là nông dân lao động”,
nói
cụ thể là phải làm CCRĐ ở các vùng gọi
là
“giải phóng”. Sau khi về nước, ông Hồ đã
cùng
Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau
này) ĐCS trong hai năm trời bí mật và tích
cực chuẩn
bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt
tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường
lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo sự phân
công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt
Nam, nên ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn
Trung
Quốc đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố
vấn là La Quý Ba đồng thời là đại sứ Bắc
Kinh tại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Vi Quốc
Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự,
còn đứng đầu đoàn cố vấn CCRĐ là Kiều
Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh ủy Quảng
Tây. Đó là chưa kể đủ loại cố vấn
khác, như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn
công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền... Để chuẩn bị về mặt
tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội,
năm 1952, Bộ chính trị (BCT) Trung ương (TW) Đảng
thực hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng
và “cuộc chỉnh quân” trong quân đội,
theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh
phong” của ĐCS Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi
khác
một chút mà thôi. Chuẩn bị về mặt tổ chức,
BCT TW đã thành lập ủy
ban CCRĐ Trung ương (UBCCRĐTW), gồm có Trường
Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm, hai
phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc Việt, ủy viên
BCT và
Lê Văn Lương, ủy viên BCT, còn ủy viên thường
trực là Hồ Viết Thắng, ủy viên TW Đảng.
Dưới UBCCRĐTW là các đoàn CCRĐ, dưới các
đoàn là các đội CCRĐ. Cả một đạo
quân hùng hậu để làm “chiến dịch” đánh phong
kiến!
ĐCS coi CCRĐ
là “ một
cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần
phải “phóng tay phát động quần chúng” để thực
hiện, có nghĩa là phải làm hết sức mãnh
liệt,
thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho
dù có những hành động quá trớn, quá
tả cũng
không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản
thường nhấn mạnh ÐCS là đảng cách mạng
thì nhất định phải làm CCRÐ theo tinh thần
"cách mạng", "cách mạng long trời lở
đất"! Họ cao ngạo phê phán các cuộc CCRÐ
hoà
bình ở nhiều nước là cải lương chủ
nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì
tại các nước đó,
chính quyền hạn định mức ruộng đất
tối đa cho điền chủ
được có, còn phần thừa thì nhà nước mua
lại để chia cho người ít hay không có ruộng
đất. Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ
“phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu
này, ông Hồ
đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre
cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí
và giữ
lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng
được.
Hình như ông cũng khoái cái lối giải
thích hóm hỉnh
ấy, không nghĩ rằng cái tinh thần “quá đi một
tí” sau này chính là mối hoạ lớn cho
dân! Các đội,
các đoàn CCRĐ được tung về nông thôn. Họ
tung hoành gần như với quyền hạn không hạn
chế, họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền
sinh quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho
họ và họ
cũng tự “phóng tay”... Vì thế, trong dân gian
thường
nói “nhất đội, nhì Trời”, và các “anh đội”
cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ một
lần,
thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch
ủy ban quân quản thành phố Hà Nội, về quê
thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại
thành Hà Nội.
Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh cần
vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì
cũng không được
thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính quyền
Hà Nội biết được mới cho người
đến nhận ông về. Đại thần của chế
độ mà còn bị như thế huống hồ dân
đen!
Trong năm
1952, BCT TW Đảng
lao động Việt Nam (ĐLĐVN), tức là ĐCS
khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm
CCRĐ ở sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh
Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này
có một sự kiện
“động trời”: toà án CCRĐ
xử tử hình bà Nguyễn Thị Năm, tức là
Cát Thành Long, người mà thời trước cách
mạng
đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các
ông
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ,
Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... Còn
trong Tuần lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100
lạng
vàng cho chính quyền mới. Bà đã hoạt động
trong Hội Phụ nữ, lại có con trai đi bộ
đội làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà
đã bị
quy là địa chủ cường hào ác bá, bị
đoàn
CCRĐ xử án tử hình, UBCCRĐ TW duyệt
y và BCT TW ĐLĐVN
cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng
sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng
được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay
đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, ủy
viên BCT, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh
lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy!
Phát súng
đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một
người phụ nữ yêu nước đã từng giúp
đỡ cho những người cộng sản! Phát súng
đó tự nó đã nói lên nhiều điều về
các
lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những
tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!
Năm 1953,
thực tế
là năm bắt đầu tiến hành CCRĐ, năm
ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối,
chính sách và “luật pháp hoá”
các chính sách của Đảng bằng
quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và
nghị định của Chính phủ, thông tư của
các bộ. Dựa trên tài liệu chính thức của
ĐCS, tôi xin ghi lại những cái mốc lịch sử
đau thương của dân tộc ta trong cuộc CCRĐ
đẵm máu và nước mắt này:
- cuối tháng 01.1953 – hội nghị lần
thứ tư của TW ĐLĐVN để thông qua bản
Dự thảo cương lĩnh Đảng về chính
sách ruộng đất. Tại hội nghị, ông Hồ
đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để
giảm tô, tiến tới CCRĐ.
- đầu
tháng 03.1953 – Hội
đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của
Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục
đích, phương châm, kế hoạch phát động quần
chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua
các văn
bản về chính sách ruộng đất và phát động
quần chúng, tức là đã “luật pháp
hoá” nghị quyết
của TW Đảng.
- 01 –
05.03.1953 – báo Nhân Dân
đăng tải bài “Chỉnh đốn chi bộ” của
ủy viên Bộ chính trị ĐLĐVN, trưởng ban tổ
chức TW Lê Văn Lương, người trực tiếp
phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong
CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ VNDCCH ra
thông tư về
việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc
phát động quần chúng. Đây là những hướng
dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn
tổ chức với CCRĐ, với tinh thần “không dựa
vào (thực tế là đánh vào – Người viết) tổ
chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở nông
thôn!
- 12.04.1953
– Chính phủ
VNDCCH ra ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy định
chính sách ruộng đất, trong đó có việc tịch
thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông
dân; 2/ sắc lệnh quy định việc thành lập Toà
án nhân dân ở những nơi phát động quần
chúng;
3/ sắc lệnh quy định việc trừng trị những
địa chủ ở những nơi phát động quần
chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953
– báo Nhân Dân
đăng bài về Chương trình CCRĐ.
-
tháng 06.1953 – ĐLĐVN tổ
chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn chính trị”
để nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ
đảng viên trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953
– hội nghị
lần thứ năm TW và Hội nghị toàn quốc của
ĐLĐVN để quyết định tiến hành
CCRĐ. Ông Hồ đã phát biểu ý kiến tại hội
nghị nhấn mạnh phải “phóng tay phát động quần
chúng tiến hành CCRĐ”.
-
01–04.12.1953 – kỳ họp
thứ ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc báo cáo “Tình hình
trước mắt và nhiệm
vụ CCRĐ” và ngày 04.12.1953 – Quốc hội nhất trí
thông qua Luật CCRĐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ do Quốc
hội thông qua.
Từ đó,
bắt đầu
các đợt CCRĐ, mà đợt
đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên
và 6 xã tỉnh
Thanh Hoá, sau đó lan tràn trên khắp miền
Bắc, trừ
các vùng miền núi. Đợt năm là đợt cuối
cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng
Bắc bộ và các vùng bị Pháp chiếm trước
đây. May mắn cho đồng bào miền núi, vì
ĐLĐVN chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở
vùng đồng bằng mới làm ở miền núi. Do sự
phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội,
nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ
ra ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nên về sau, TW
ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải cách
dân
chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến
địa phương (tức là các phìa tạo) mà
không dùng
bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang
Trung
Quốc, Lào... Còn ở huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng
Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Việt
Nam Cộng Hoà, nên cũng được chiếu cố,
nghĩa là dùng bạo lực vừa phải “để
không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam”.
-
tháng 09.1956 – hội nghị
lần thứ 10 của TW ĐLĐVN kiểm điểm
tình hình CCRĐ. Do ảnh hưởng của đại hội
lần thứ 20 ĐCS Liên Xô vạch trần những tội
ác của Stalin, do sự bất mãn trong dân
chúng, cộng thêm
sự phản ứng khá mạnh của cán bộ, TW Đảng
buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng
trong CCRĐ và chủ trương sửa sai. Tại hội
nghị, TW đã thi hành kỷ luật như
sau: Trường Chinh mất
chức Tổng bí thư, chỉ còn làm ủy viên BCT,
còn
Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức
ủy viên BCT, Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi
TW ĐLĐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí
thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW,
thường trực BCT.
- 29.10.1956
– mít tinh lớn tại
Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, ủy viên
BCT đại tướng
Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh
và TW
ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm
nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói
rõ: một vài
người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ
chức
tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ
đã đến dự và khóc trước dân chúng.
Hà Nội
được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi
biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải
thích: “Bác
đến không tiện”, nhưng
chúng tôi đều
hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra “chịu
trận”
thay mình, nên không hề có việc ông Hồ
khóc trước
dân chúng.
o0o
Ở hải ngoại,
cho
đến nay cũng đã có một số tài
liệu nói đến những
bạo hành, những tội ác trong CCRĐ, cuốn sách
nói về
đề tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng
tiếng Anh) là cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng
Sản” của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở trong nước
thì đến nay, chưa có một công trình
nghiêm túc nào nghiên
cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng
về đề tài CCRĐ. Tại sao? Dễ hiểu là sau
khi bị bắt buộc phải thừa nhận những
sai lầm trong CCRĐ, BCT TW Đảng ra lệnh miệng
tuyệt đối cấm không được nói đến
đề tài này. Người đầu tiên “vi phạm”
tabou thiêng liêng đó là nhà văn
Hà Minh Tuân – anh đã viết
lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài
cấm kỵ đó trong tác phẩm “Vào Đời”. Tức
thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên
là “tư tưởng địa
chủ ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ hết
nước. Từ đó mọi người ai cũng im
re, “lo giữ cái đội nón của mình” (nhóm từ
thông dụng
hồi đó có nghĩa là giữ đầu mình)...
Mãi sau
này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon
men đến đề
tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ
có nhiều
nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi
sợ “truyền kiếp”, dám đề cập đến
đề tài đau thương này một cách nghiêm
túc và
toàn diện.
Nếu
nói về những
tội ác trong CCRĐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại
chính sau đây.
Thứ nhất. Tội
tàn
sát thường dân vô tội – tội ác chống
nhân loại.
Người nông dân Việt Nam hiền hoà, chất phác
đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng
góp vào cuộc
kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ĐCS giáng cho họ
một đòn chí mạng. ĐCS nói rằng CCRĐ là một
cuộc cách mạng để thực hiện ước
mơ muôn đời của nông dân: “người cày có
ruộng”
– nhưng thực tế thì không phải như vậy, thực
tế là nông dân bị đánh đòn chí
mạng! Tầng lớp
năng nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở
nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú
nông, thậm
chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết
đường sinh sống, còn một loạt cán bộ ở
nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ làm
nhiệm
vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng
nhiên bị quy là phản động, gián điệp, Việt
gian, v.v... bị trừng trị, nhiều người bị
bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều người
trung nông, thậm chí một số bần nông cũng “bị
kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ
quái gỡ 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!)
và họ phải cam chịu cái số phận mà ĐCS dành
cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gỡ 5% đó lại
kèm thêm những “kết luận” quái đản khác:
đã
có địa chủ, tất phải có cường hào ác
bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi
oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương
châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng
thêm với việc
“thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã
gây ra
tình trạng “kích thanh phần”, “nống thành
tích” cố tìm
ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử
nhiều ác bá... để có được bằng khen,
huân chương, để ngoi lên địa vị cao
hơn... càng làm cho nỗi khổ đau của người
dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài
chuyện mà thôi.
Một anh bạn
đi làm
CCRĐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi
đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu ủy,
và Đặng Thí, phó bí thư khu ủy, khét
tiếng hiếu
sát trong CCRĐ, họ đều là trưởng và phó
đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền
bài vè
có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”.
Anh bạn
tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án tử
hình trên ghi
đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: một
đội tới làm CCRĐ ở
một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ
Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi
mà không thể quy ai
là địa chủ được (những ai đã từng
đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung
của dân chúng ở đây). Đặng Thí “đả
thông
tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi
phải có 5% địa chủ. Đội sợ trên
“đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy
nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra
năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ
khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì... Liếc
mắt qua
không thấy có danh sách “lên thớt”, bực
mình Thí mới xạc
cho “anh đội” một trận: “Có
địa
chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và
ném cả tập giấy
vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội
cũng lọc ra được “hai địa chủ
để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa
đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp,
tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn
hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên
yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt
“đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi
đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút
bút
ký toẹt vào. Xong rồi Thí
đạp xe đi thẳng.
Một ông
bạn làm việc
ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRĐ
kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông
bạn có chân về một làng nghèo ở Thái
Bình, không thể
nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và
cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác
bá để
bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một
ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng
nào cũng thế
thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt
con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả,
vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân,
thế mà lại
hay to mồm cãi lại, gây gồ. Thế là “đủ yếu
tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân
làng ghét cay ghét đắng”. Địa chủ bóc lột
thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của
nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ
nó phải chịu thay! Ai
cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng
không dám mở miệng khi “cồ máy nghiền thịt” của
Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay,
không ai biết
số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết
oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những con số
mà
nhiều người đưa ra chỉ là ước
đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được
Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ
ở
ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng
của
việc đó ở thủ đô, nên ông Võ
Nguyên Giáp
được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở
Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà
ông
Giáp làm việc. Đôi khi chúng tôi cũng
nói chuyện với
nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi
thẳng ông: trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan.
Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó
tôi không dám hỏi thêm cụ
thể hơn – thế thì bao nhiêu người bị chết
oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến
vấn
đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho
đến nay, tôi không biết con số mà ông
Giáp nói với
tôi có thật hay không, nhưng hôm đó
ông trả lời tôi
tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi
cũng có phần
tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRĐ và
Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán
là chừng năm-sáu nghìn người. Đó là
chưa kể
nhiều người bị chết vì các lý do khác, như
tự
tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của
hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người
nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại
cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên
Giáp chỉ cho biết
con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên
đã được
trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay
không, ai mà
biết được! Tóm lại, những con số về
người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn
chưa xác định được. Dù thế chăng nữa,
với những con số ước tính đã cho thấy
đây là một tội ác tày trời. Tội ác
này chính là tội
ác chống nhân loại!
Còn
chuyện “sửa sai”
thì cũng chỉ là một lối “tung hoả mù” chủ yếu
để làm dịu đi phần
nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng,
tránh những
cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà thôi. Chúng
tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết
khá rõ. Có nhiều
cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết
người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại
tâm thần người ta (có không ít người bị
điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia
đình người ta tan vỡ... thì chỉ có Trời mới
sửa được! Ngay cả những việc tưởng
chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể
sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là
địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy
hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả
lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết
là phải trả lại nhà, các ông bà
nông dân bèn cạy gạch,
cạy cửa, dở ngói, rút rui mè, cất giấu hết,
phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà
họ đang ở.
Nên cái nhà được trả lại đâu còn
nguyên vẹn
như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã
chia
rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa,
nông dân
ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế),
nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi),
thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Đó
là
không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị
tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em,
giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm,
láng
giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc
khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc
này
làm được là trả tự do cho những người
bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ
cho một số cán bộ đã bị đấu tố
cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản
đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ
mới với cán bộ cũ.
Nhân
thể cũng xin nói
thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của TW
ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, TW buộc phải thừa nhận
những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người
ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới
đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm
khắc tự
phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của
TW về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ
chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn
khư khư khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm
“nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng
lợi lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối,
nguỵ biện, sự không thực lòng hối hận của
họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai được?!
Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với
các ông lãnh đạo
CCRĐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ”
để lừa dối dư luận mà thôi. Trường
Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn
là ủy viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch
Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng,
rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày
ra vụ Nhân
Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em
trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao
văn nghệ
sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị
treo bút trong
hàng mấy chục năm trời, đánh một đòn nặng
nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị
thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt
(một người nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng
những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ trước nữa,
chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống
Pháp, ông phụ trách xét vụ này,
đã bắt giam nhiều
cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội,
và làm
chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi
BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện
kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh
quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu
trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức
đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở
xã bị
bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì
sau này lại được đưa về làm bí thư
Thành ủy Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị
đưa ra khỏi TW Đảng thì lại cho làm ủy
viên thường trực ủy ban Kế hoạch nhà nước!
Trái lại, người ngoài Đảng mà dám thẳng
thắn
phát biểu ý kiến với ĐCS, cho dù nhẹ nhàng
chăng nữa, như trường hợp luật sư
Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại
hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc
CCRĐ và đưa ra những đề nghị hợp lý
thì Đảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh
khốn
cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW
Đảng thành thực sám hối về những sai lầm,
những tội ác của mình hay không?
Chẳng những
không sám hối
mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy
được là CCRĐ đã giành được thắng
lợi lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời”
của nông dân - đem lại
ruộng đất cho người cày. Đây là một
sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất
nông dân được chia thì một phần đáng kể
là của những người bị quy oan, khi sửa sai
cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất
chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được
hưởng gì trên mảnh đất được chia
đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ
vào hợp tác xã để tập thể hoá nông
nghiệp,
nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của
họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng
đất cho người
cày” đâu có phải là mối quan tâm
chính yếu hay là mục
đích tối hậu của Đảng? Cho nên đến
khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất
đất nước, bằng một điều khoản
mới trong Hiến pháp, Đảng đã nhẹ nhàng quốc
hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước!
Thế thì làm sao có thể nói là Đảng
“đem lại ruộng đất cho người
cày” được?! Quả thật là người nông dân
chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng
được gì cả!
Thứ hai. Tội
phá hoại
truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của
dân tộc. Truyền thống hiếu hoà, thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được
dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã
bị ĐCS
phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng
sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”,
trước CCRĐ đều cảm nhận cái tinh thần
“đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá
rách” còn khá đậm
đà trong mối quan hệ giữa người với
người. Cố nhiên, không ai nói là ở các
làng quê không có
những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần chung ở
nông thôn ta là như vậy. Với cái chính
sách “phân định
thành phần giai cấp”, ĐCS chia cư dân nông
thôn thành cố
nông, bần nông, trung nông (có ba loại, trung
nông yếu, trung
nông vừa, trung nông cứng), phú nông
(có hai loại, phú nông
thường, phú nông ngấp nghé địa chủ – đây
là “sáng kiến” của người chấp hành để
khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ
trong chính sách thì không chia ra), địa chủ
(có mấy loại,
địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa
chủ thường, địa chủ cường hào ác
bá, địa chủ phản động). Sự phân chia có
vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất
cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của
“đội” (khi trên bắt phải đủ 5% địa
chủ, bắt phải có ác bá, phản động để
bắn, thì cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý
muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn
đó rất quái đản, thấy thái độ của
đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ
“kích” lên cho bõ ghét). Về nguyên
tắc, muốn phân định
thành phần thì phải “tố khổ”, phải “tố”
nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với
lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác
lẫn nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ
đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau. Cũng có
nhiều
người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì
không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai
không chịu
“tố” thì bị đội CCRĐ coi là chưa “dứt
khoát”, “có liên quan”, v.v... cuối cùng
thì ai cũng tham gia vào cuộc
“tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây là
số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc
vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố
điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rễ”,
làm “cốt
cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực”
nhiều hơn. Mà thường cái đám người này
nghèo túng vì lười biếng, vì rượu
chè, cờ bạc,
có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường
lại được đội coi như là bần cố
nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm...
hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều
kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của
nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa
mọi lời “tố” của họ đều được
coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ
sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một
sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi
đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông
dân lao động đã nói là đúng”. Thế
là không còn ai
cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần
“đánh vào” bí thư hay chủ tịch ủy ban kháng
chiến
trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi
là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố”
là “chúng
nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ
sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh
ta khó
tránh khỏi cái án tử hình! Một nông
dân “tố” một
người bị “kích” lên địa chủ là “hồi
kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn
nhìn lên trời và chỉ chỏ cái gì
đó”, tức thì bị
quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như
là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn
lên, nhất là những người đang sống ở
các nước dân chủ tiên tiến, thì khó
mà tin là đã có
những chuyện như thế. Khốn thay đó lại
là sự thật đắng cay đã từng xảy ra
trong lịch sử nước nhà!
Tóm
lại, CCRĐ làm cho nội
bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo
lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa sai
thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn
loạn: những
vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa
những người bị “tố oan” với những kẻ
“tố điêu”, giữa những người bị tước
đoạt tài sản với những người
được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ
cũ bị quy kết phản động và bị tù tội
với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ... Di sản
nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta
đã để lại
là tinh thần đùm bọc, hoà hiếu nhau của người
dân nông thôn miền Bắc đã bị phá hủy từ
ngày
CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội
ác?
Thứ ba. Tội
phá hoại
đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch
sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý
làm người bị đảo điên một cách quái
đản như trong CCRĐ. Các đội CCRĐ không từ
một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”,
“tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ
ép buộc
con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố”
bố mẹ chồng, con rể
“đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu
tố” chồng, anh em “đấu
tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ
hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn,
láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng
có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái
“đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con
cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng!
Những
người bị quy là địa chủ ngay lập tức
bị tước mọi quyền làm người, bị hạ
nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải
thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải
cúi
đầu lễ phép “thưa các ông, các bà
nông dân”, phải
xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ
là một
đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi
người
kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”,
“chúng bay” và tự
xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể
chửi mắng,
xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ
mới”
đó – đội tuyên bố phải đối xử
như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới
“đánh gục giai cấp địa chủ” được!
Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập
trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với
địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng có thể
mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị
quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ
bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị
bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên
quan”.
Còn khi hành quyết người bị án tử hình
thì những
người thân thích, ruột thịt của người ấy,
từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt
buộc phải có mặt để chứng kiến tận
mắt cảnh tượng đó! Đúng là sự khủng
bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một
tình trạng
thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông
thôn
(và cả ở thành phố có liên hệ với nông
thôn)
đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai
người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên)
thành phần địa chủ, bị gán tội phản
động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ
liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập
gia đình khác, có con hoặc chưa có con với
chồng
hay vợ mới. Đến sau này thấy sai, người
bị bắt đi tù nay được trở về, thế
là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi
Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956
để
“giải quyết những vụ vợ chồng bỏ
nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể
hàn gắn được tình cảm yêu thương trong
gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng
một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư
pháp! Tình yêu của nam
nữ
cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt
như thế – để giữ lập trường giai cấp
ai cũng phải cắt đứt với người yêu
thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây
cũng là một nét
về đạo đức nữa cần phải nói
đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng
trợn được đề cao như trong CCRĐ. Chẳng
cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị
đội” báo cáo láo cho đoàn,
vì nó quá thường, mà cái cần
vạch ra ở
đây chính là người ta ép buộc, khuyến
khích
người nông dân nói dối, làm láo. Dần
dà rồi
người nông dân cũng thấy cần phải nói dối,
làm láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ
cũng “tố bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm
biết
mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố
giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ
phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên
cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội cũng dạy
thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối,
chẳng
hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất
hiện hình địa chủ thì phải hô “đả
đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình
địa
chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế
là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên,
cũng không loại trừ
cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám
đông”, khi
người ta hành động như trong một cơn lên
đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần
chiếu phim “Bạch Mao Nữ” củaTrung Quốc, thì có
nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện
hình địa chủ là bên dưới ào ào
ném đá vào màn ảnh.
Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ
chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ
vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương
của
UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ,
nhất là địa chủ cường hào ác bá đều
phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu
trường” không được vấp váp. Thế là
trước ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, dân
quân, công an, toà án, chủ tịch
đoàn... đều phải
“diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước,
ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao,
nói gì, khi nào người “tố” phải cảm động
khóc lóc, khi nào người dân phải hô
“đả đảo”
(khi người bị “tố” không nhận tội...), lúc
nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu
hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì
“hoan hô” (khi toà tuyên án tử hình,
tịch thu tài sản...). Chủ
tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều
là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong
vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta
lúng túng,
điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu
trường”, thường “anh đội”, “chị đội”
phải ngồi sau lưng nhắc, như người nhắc
tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi
không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì
“anh đội” giật micro và điều khiển luôn. Tóm
lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối
lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết
ngượng! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối
đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và
người dân, tạo nên một nếp sống giả dối
vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội
phá hủy
truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc.
Bằng
cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo
và truyền thống tâm linh của dân tộc. Trước
CCRĐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo,
các tu viện, nhà cô nhi...
đều có ruộng đất riêng, các chùa có
ruộng hậu
do tín chủ cúng cho chùa, các nhà
thờ họ có ruộng họ,
các đình có ruộng làng... để lo việc sửa
sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế
hàng năm,
việc từ thiện, v.v... và để nuôi sống các
linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người chuyên
lo việc trông nom, thờ phụng... Nhờ thế hoạt
động tôn giáo, tâm linh, từ thiện được
tiến hành bình thường không có trở ngại.
Nhưng với chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả
các ruộng đất đó đều nhất loạt bị
coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu
để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa
đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà
cô nhi, chùa
chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ,
đình... đều trở nên điêu đứng và đần
dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên
chúa
giáo, do phong trào giáo dân ồ ạt di cư
vào Nam, nên về
sau Đảng đã phải để lại cho các nhà thờ
một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng
các cơ sở thờ cúng vào việc họp hành,
đóng
quân, làm hội trường, làm kho hợp tác
xã mua bán, kho hợp
tác xã sản xuất, v.v... Có nơi thậm chí
người
ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà
con
tín đồ bí mật cứu các tượng Phật,
đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn
các tượng gỗ đều mục nát, thế
nhưng cũng có ít tượng còn giữ được,
vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào
chùa. Tóm lại,
cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ
“thiện”,
chữ “nhân” một thời
gian dài chẳng ai dám nói đến, vì giữa
lúc cái ác tràn
đầy mà nói đến chữ “thiện”, chữ “nhân”
thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản
đối!
Trong
lúc đó, người
ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu
tranh giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất
nhân, điều vô đạo. Một điều rất
quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự
nhiên hoặc
là cần thiết: người ta thường xuyên huy
động các cháu thiếu niên từ 9-10 tuổi trở
lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch đi cổ
động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự
các cuộc đấu tố, các phiên toà CCRĐ,
các buổi
hành quyết công khai. Nhiều cháu, nhất là
các cháu gái, vốn
có tâm lý hiền lành bị bắt buộc phải tham
gia,
đã không chịu nổi, run sợ, khiếp đảm,
có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng,
súng bắn,
máu đổ... Còn các cháu vốn có
tâm lý hung dữ thì lại
thích thú hoan hô, thậm chí sau khi “được”
tham dự
những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại
bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ
quỳ để con cái nông dân lên đấu, cũng xỉa
xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội... Chẳng
biết có ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi
đã
xảy ra những “trò chơi” quái đản đó! Khi
cái
thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ
vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên
là đạo
đức bị suy đồi, băng hoại dưới
chế độ của những người cộng sản.
Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã
được đọc truyện ngắn “Bước
Qua Lời Nguyền” của Tạ Duyên Anh đăng trên tuần
báo “Văn Nghệ” (1989) ở Hà Nội, truyện đó phản
ánh phần nào tấn bi kịch
của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong
và sau cuộc
CCRĐ đầy kinh hoàng.
Không
những CCRĐ
đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo
lý và truyền thống nhân bản, mà nền văn
hoá dân tộc
cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề.
Nhiều miếu đền uy nghiêm bề thế, nhiều
bia đá là những di tích văn hoá lâu
đời của
dân tộc đã bị hủy hoại trong CCRĐ. ĐCS
giấu kín những chuyện này, nhưng cũng có thể
nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần,
trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm.
Chẳng
hạn, cụ Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời
thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, gọi
thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ 11 là bác.
Đầu
năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn
CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho
phát canh
để sống) lại bị “kích” lên thành phần phong
kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử
nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến
sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà
thật ra cụ
không hề nhận chức tước, phẩm hàm gì, chỉ
cam phận sống thanh nhàn ẩn dật. Cụ bị
đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ
sai, bị giam ở trại Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là
nơi nước rất độc, nên ngay mùa thu năm ấy,
cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác
ở
ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất
hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn
hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị quy oan như vậy,
mà đội CCRĐ đã phá hủy nhiều đền
đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn
Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã đốt
cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý
giá của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó
có
di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát
lớn lao về văn hoá không có gì bù lại
được!
(Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng
Cao Ruyện, NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn
một chuyện này nữa.
Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Đảng triệu
tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong CCRĐ hồi
tháng 09.1956, tôi được
nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ
trưởng Bộ
văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia
đá của Lê Lợi đã bị đội CCRĐ phá hủy.
Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác
giống
hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải
tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết
là bia mới! Tôi không có điều kiện kiểm
chứng,
nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại
nói sai?!
o0o
Như
trên tôi đã viết,
tuy là chuyện CCRĐ đã qua từ lâu rồi, nhưng
ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay
tập
đoàn lãnh đạo ĐCS
đang cố viết lại lịch sử, đang
cho bọn bồi bút xuyên tạc lịch sử để
chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN trong
CCRĐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải
nói công bằng
là trước năm 1950, ông Hồ và ĐCSVN không
nói đến
CCRĐ, chỉ nói đến giảm tô, mà cũng chỉ
trên giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực hiện.
Chỉ từ năm 1952, vấn đề giảm tô và
CCRĐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy
có thể nói là việc CCRĐ là do sức ép
của Stalin và
Mao Trạch Đông. Nhưng khi ông Hồ đã nhận làm
CCRĐ là ông và ĐCSVN đã làm một
cách tin tưởng
và tích cực. Cũng có thể do yếu tố tâm
lý của
một người trước đây đã từng bị
Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là hữu khuynh, thậm
chí bị nghi ngờ, không giao việc trong thời hạn
dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm vụ
phản phong, thì ông càng phải cố tỏ rõ tinh
thần
mẫn cán, kiên quyết của mình. Quả là hồi
đó,
ông Hồ và ĐCSVN cũng thật tình rất tin tưởng
vào Stalin và Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà
ông đã
công khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại
chiến khu Việt Bắc để chuẩn bị cho
đại hội 2 của ĐCS sẽ họp năm sau
là: “Các
cô các chú nên biết rằng: ai đó
thì
có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí
Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”. Chính
tôi có mặt trong cuộc
hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều người khác
cũng nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ
không muốn hay không dám nhắc lại mà
thôi. Đến
đại hội 2 của Đảng (tháng 03.1951), ông Hồ
lại cũng nói đúng như thế, và cụ Nguyễn
Văn Trấn cũng đã kể lại chuyện đó
trong sách của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”.
Cho nên ông Hồ làm CCRĐ rõ ràng
với
sự tin tưởng và tích cực. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà cụ Vũ Đình Huỳnh, người gần
gũi ông nhất thời gian đó sau này đã “khẳng
định người chịu trách nhiệm chính trong sự
gây ra những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí
Minh, chứ
không phải ông Trường Chinh, như đã có sự ngộ
nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con
dê tế
thần cho sai lầm của ông Hồ” (xem
“Đêm Giữa Ban
Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên). Theo tôi,
đúng là ông
Hồ phải chịu trách nhiệm chính, như cụ
Vũ đã nói, nhưng Trường Chinh chẳng phải
là “con dê tế thần” với cái nghĩa “oan dương”
đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư, vừa
là chủ
nhiệm UBCCRĐTW, ông ta là người điều hành mọi
việc CCRĐ hồi đó, cho nên, nếu Trường
Chinh không phải là thủ phạm số một thì cũng
phải là thủ phạm số hai. Cái ý của cụ
Vũ, theo tôi hiểu, là TW Đảng trong hội nghị
lần thứ 10 (09.1956) đã không đả động gì
đến Hồ Chí Minh, đã không dám nói đến
trách
nhiệm của ông Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch
Đảng, Chủ tịch nước thì... ôi thôi, ĐCS
còn gì nữa!) mà chỉ đưa Trường Chinh và
các
ông khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau
này, trong giới thân cận
với giai cấp cầm quyền, có những người
hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh không
tán
thành chủ trương CCRĐ, không tán thành việc
xử
tử bà Nguyễn Thị Năm, không tán thành
làm Chỉnh
đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v... Nhưng, xét cho
cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại
không hơn không kém. Những huyền thoại ấy nhằm
đánh lừa những người không biết tình hình
thực
tế hồi thập niên 50 ở
miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu
sinh, nhằm chạy tội cho ông Hồ để vớt
vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”
làm phao cứu
mạng cho tập đoàn thống trị cộng sản.
Hoàng Tùng, nguyên tổng biên tập báo
Nhân Dân, nguyên bí thư
TW ĐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn, v.v... là một
trong số những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại
kiểu
đó. Trong hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”,
ông ta có kể lại về thái độ của ông Hồ
đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm
như sau: “Họp Bộ
chính trị
Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội
thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu
phát súng
đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà
người ấy cũng giúp đỡ cho cách mạng.
Người Pháp nói không nên đánh
đàn bà, dù chỉ
đánh bằng một cành hoa”. Sau
cố vấn Trung Quốc
La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi
tôi theo đa số,
chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ cứ
thế làm” (xem
đoạn trích, đăng trên tờ “Diễn Đàn Forum”
ở Paris, số 123/11.2002, tr.15). Khi kể chuyện này,
Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực
tế lịch sử rất quan trọng: 1/ vào thời
điểm nửa đầu thập niên 50, uy thế của
ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời
của ông đã nói ra thì không một ai, kể
cả các ông
trong BCT, dám làm trái ý ông hết; 2/
tất cả các ông trong
BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp
giữ đúng tư cách một người học trò khiêm
tốn, không bao giờ được phép quyết định
những chủ trương lớn mà không có ý kiến
ông,
huống hồ là việc làm trái ý ông. Hồi
1952-1953 thì
không thể nào có chuyện “Thôi tôi theo
đa số” và “Và họ
cứ thế làm” được! Nếu thật sự ý
thức được là “không nên đánh đàn
bà, dù chỉ
đánh bằng một cành hoa”, mà ông Hồ chỉ lắc
đầu một cái thôi, chứ không cần phải nói
nhiều
lời như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là
ông
đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm! Mà
không chỉ một mình bà Năm! Thêm nữa,
cái chữ “họ”
trong câu của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế
làm” rất mập
mờ: “họ” là ai? Các ông trong BCT hay các cố
vấn? Các
ông trong BCT thì chắc chắn là không.
Còn các ông cố vấn
có thể họ trái ý với ông Chủ tịch nước,
Chủ tịch Đảng của Việt Nam, nhưng họ
không thể bắt ép ông được, họ chỉ là cố
vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết
định. Những cơ quan nào đã từng làm việc
với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều
biết cái nguyên tắc đó. Cho nên có thể
khẳng
định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm,
đúng là ông Hồ đã không cứu bà
Năm. Cũng
như sau này, trong vụ án Xét lại – chống Đảng,
ông đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh.
Dù rằng
ông biết rõ về họ. Hơn nữa, một câu hỏi
hoàn toàn chính đáng được đặt ra: trong
suốt
ba-bốn năm đằng đẵng lẽ nào ông Hồ
và BCT không hề hay biết gì hết đến những thảm
hoạ của người dân ở nông thôn mà họ cai trị
hay sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các
ông khác
trong BCT không biết rằng ở quê hương mình những
người đồng hương của họ đang
khốn khổ ra sao? Lẽ nào trong giới thân cận của
ông Hồ và các ủy viên BCT không
có một ai dám phản ánh
tình trạng bi đát của người dân cho họ biết
hay sao? Câu trả lời dứt khoát là: các
ông ấy đều
có biết, nhưng các ông đều im lặng! Im lặng
đến nỗi ông Vũ Đình Huỳnh một lần
đang ốm cũng cố chống gậy lên Chủ tịch
phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt ông:
“Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà
Bác ngồi
yên được à? Chúng ta tuy không có học,
chúng ta dốt,
chúng ta phải vừa làm vừa xây dựng chính
quyền,
vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng
chúng
ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu
đồng
bào, đồng chí!”
(Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng Tùng cũng
đã lờ tịt
cái thực tế lịch sử phũ phàng này:
Trong suốt thời gian CCRĐ,
ông Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước,
chưa hề ký một lệnh ân xá nào cho một ai bị
án tử hình. Chỉ từ sau Đại hội lần thứ
20 ĐCS Liên Xô và nhất là sau hội nghị
cán bộ cao
cấp và trung cấp của Đảng (từ 28.04 đến
03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán bộ
thì mới có lệnh tạm thời chưa thi hành các
án tử
hình. Nhưng, than ôi, lúc đó thì...
CCRĐ về cơ bản
đã gần xong rồi! Lúc đó các đoàn
và UBCCRĐTW
đang bắt tay làm báo cáo tổng kết để chuẩn
bị cho hội nghị TW
Đảng kiểm điểm CCRĐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc
Chỉnh
đốn tổ chức trong CCRĐ, Hoàng Tùng cũng cố
tình đổ lỗi cho cố vấn Trung Quốc là chính,
chứ không phải lỗi của ông Hồ và ĐCSVN. Ông
Tùng viết: “Thuyết của
họ là
không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại
một số tổ chức của Đảng, họ phủ
nhận hết các tổ chức khác, như chính quyền,
các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng
tháng tám thành
công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm
1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ
hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử.
Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà
là
đánh vào Đảng ta. May mà dến năm 1956 ta kịp dừng
lại (bao
nhiêu đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng đã
gần xong, thế mà bảo là “kịp”! – Người viết),
nếu
không thì tan nát hết”. Một đoạn
khác: “Đánh
thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản
cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là
hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ
tội cho Pháp, Mỹ, điều
đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta
vội, làm ẩu,
đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà
phú
nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng
viên tốt
cũng bị đánh. Kết quả của những chính
sách, cải cách lúc đó là như thế” (xem tờ
“Diễn Đàn
Forum” nói trên). Đúng là các cố vấn
Trung Quốc chỉ
biết có kinh nghiệm CCRĐ ở Hoa Nam, khi Hồng quân
tiến xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ
chức của ĐCS, nên có nhiều người không phải
cộng sản cũng đã đứng ra lập tổ chức,
lập chính quyền, vì thế khi làm CCRĐ thì
ĐCS Trung
Quốc cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch các tổ
chức đó đi lập những tổ chức mới
của họ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, tình hình
hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm rập
khuôn theo kinh nghiệm
Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các cố
vấn
Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải xét
vấn đề khách quan theo đúng sự thật lịch
sử, chứ không thể đổ lỗi, đổ tội
tùm lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và
BCT TW ĐLĐVN sống và làm việc ở Việt Nam, có
phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố
vấn
Trung Quốc xúi gì là làm nấy? Chẳng qua chỉ
vì khi
đã say men “lập trường giai cấp đấu
tranh”, say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme, Maoisme...
trong cuộc lên đồng tập
thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng
sản Việt Nam
cũng “hăng hái” không kém gì người ta.
Tôi còn nhớ,
có lần đọc bài nói chuyện của ông Hồ với
cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội san “Cải
cách Ruộng đất” (tạp chí lưu hành trong nội bộ),
trong đó ông giải thích rất mộc mạc chủ
trương không được dựa vào tổ chức
cũ như sau: “Tổ chức cũ
là
“tổ kén”, các cô, các chú không
được dựa vào...”. Lại cũng
cái lối
dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói
trên!
Năm 1962, khi nói chuyện về Tuyển tập Hồ Chí
Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc đó là
phó giám
đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng:
“Làm
tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm,
phải rà soát lại cả, bao nhiêu bài
nói của ông cụ
trong CCRĐ phải loại bỏ hay thu gọn lại”. Tôi
hỏi anh có nhớ bài
ông cụ nói “Tổ chức cũ là “tổ kén”
không? Anh trả
lời: “Có
chứ! Bài đó phải loại bỏ.
Cán bộ đảng viên nông thôn người ta đang
oán
giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế
nào được!”.
Nếu ông Hồ không tán thành chủ trương của
các
cố vấn đối với tổ chức cũ ở
nông thôn thì có ai bắt ông phải
nói thế đâu?
Tôi kể
lại những
chuyện đó chỉ để đi đến kết
luận này: ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ
tội cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách nhiệm
lớn lao của mình trong CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN
chưa sám hối được về những tội ác
đã gây ra, thì người dân chớ có hy
vọng là Đảng
sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ
không tái diễn lại những tội ác trước
đây.
Cũng xin mọi
người
đừng quên: CCRĐ không phải là thảm hoạ đầu
tiên, cũng chẳng phải là thảm hoạ cuối cùng
mà tập đoàn thống trị cộng sản Việt
Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi không
kể những thảm
hoạ trước CCRĐ, mà chỉ nói
ngay liền sau CCRĐ là vụ
án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án Xét lại –
chống
Đảng, rồi Cải tạo công thương nghiệp,
đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi
cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường vụ
Quốc hội do Trường Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt
hàng chục vạn người vô tội ở miền Bắc
vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết
Mậu Thân, v.v... và v.v... Nếu kể hết thì ta thấy
cả một chuỗi dài tội ác khủng khiếp đã
qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận ngày
nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ đoạn
tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác vẫn thế.
Tội ác
mới gần
đây nhất là vụ án Lê Chí Quang, xử một
nhà yêu
nước chân thành, một chí sĩ đáng kính
dù chỉ mới
ngoài ba mươi tuổi! Cái “tội” của anh là đã
dũng cảm dấn thân vì nước, đã dám kêu
gọi
đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo
mang tội bán nước cho Bắc triều, đã dám
đứng chân vào “Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng”
những
mong trừ được quốc nạn cho dân tộc. Tập
đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã trắng
trợn bày trò xử án để tống người thanh
niên yêu nước vào tù, người thanh niên
đã từng
tuyên bố đanh thép chí hướng của anh trong
bài tiểu
luận nổi tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”:
“Tôi
viết bài này khi đang bị kìm kẹp
trong vòng nghiệt ngã của các lực lượng bảo
thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng, bài viết
này không làm cho hào quang lấp lánh
trên đầu tôi mà trái lại,
càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng
nguy hiểm. Ngay như đối
với một công thần của cách mạng, mà họ còn
ngang nhiên tuyên bố xanh rờn: "…Sẵn sàng hy sinh
Hoàng
Minh Chính để bảo vệ chế độ". Huống
chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến
thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu
sao trước hiểm hoạ khôn lường của tồn
vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả
thân, bởi tôi tâm niệm câu nói của
Hàn Phi Tử:
"Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết
mà không lo liệu, là bất trung. Lo liệu, mà
không liều
chết là bất dũng". Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ
mọn này, được lương tri dân tộc trong và
ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ
giáo”
(01.10.2001).
Rất mong rằng
trong dịp
nhớ lại thảm hoạ CCRĐ, “lương tri dân tộc
trong và ngoài nước”, nhất là lương tri giới
trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc
tài đảng trị mà còn thì những thảm hoạ
tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập
đoàn thống trị cộng sản không tôn trọng con
người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự
do của con người, không tôn trọng luật pháp
mà chỉ
coi trọng quyền lực của họ là tối thượng
mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ CCRĐ, chúng tôi
rất
mong mọi người, nhất là giới trẻ noi gương
Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm
xoá bỏ
chế độ độc tài nhằm chuyển hoá đất
nước ta thành một xã hội dân chủ đích thực,
tạo điều kiện cho sự phát triển và phồn
vinh của Tổ quốc chúng ta.
15.12.2002