Vượt Thoát
Ngô Minh Hằng.
Thời gian
lúc này với Nhung thật nặng nề chậm chạp.
Dường như Nhung ngồi yên như thế đã lâu
lắm rồi. Trong đám cỏ cao hơn nửa thân người, nàng
cố gắng thu mình cho nhỏ hơn
nữa. Nhung nghe rõ tiếng tim đập loạn xạ trong lồng ngực
và chân tay lạnh giá.
Mùi cỏ mục và mùi bùn hăng hắc thoảng trong
sương đêm.
Dưới hai
bàn chân trần, Nhung cảm thấy nước và bùn
ướt
nhẹp. Quái ác hơn nữa, những cơn gió dù rất
nhẹ cũng đủ gây thành tiếng động
làm cho những con cào cào nhảy loạn. Một con
nhái nhỏ nhảy đến ngồi ngay trên
lưng bàn chân Nhung. Giá phải như lúc thường
thì Nhung đã nhảy nhỏm và la chói
lói. Cảm giác lành lạnh ươn ướt từ con vật thấm
qua da chân làm Nhung càng thêm
khiếp đảm. Một cái gì ơn ớn chạy dọc theo chiều xương
sống. Nhung rùng mình.
May quá, nhờ cái rùng mình, con vật thấy
động hốt hoảng nhảy đi. Tuy vậy, Nhung
vẫn cảm thấy còn quá sức căng thẳng. Căng thẳng vì
sợ hãi. Nàng sợ hãi không
phải chỉ vì con nhái nhỏ bé kia mà
vì đám công an, du kích đang ở đó
không xa.
Cách
nàng chừng vài trăm thước, những ánh đèn
pin
vẫn loang loáng trong đêm.
Tiếng gọi
nhau, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề tục tĩu của
đám du kích xã vọng lại từ
phía bãi cỏ gần bờ lạch tùy theo chiều gió
nên nghe lúc rõ lúc không. Cách
Nhung chừng vài thước phía bên mặt, anh Long
và đứa con trai cũng cố nép mình
thật thấp. Nhung đoán chắc họ cũng sợ hãi không
kém gì nàng. Phía bên trái,
gần
Nhung hơn là chị Thanh và Thảo, chị em bạn dì với
Nhung. Thảo vai lớn nhưng vì
cùng tuổi lại học chung trường nên hai đứa gọi nhau bằng
tên từ bé.
Bỗng
đâu, trong lúc bất ngờ nhất, một tiếng cười nhỏ
vang lên. Sau đó, Nhung nghe chị Thanh rít qua kẽ
răng bực bội:
- Cái
con nàỵ Lúc này mà mày còn
cười được thì tao chịu!
Không
có tiếng trả lời nhưng tiếng cười vẫn tiếp tục nổi
lên. Đúng ra, không phải là tiếng cười
mà chỉ là những tiếng gió đi qua ống mũi
nghe "hích hích". Hình
như
Thảo đã lấy tay bụm cả mũi miệng lại để cố giữ không cho
những tiếng
"cười" đó bay thoát ra ngoài. Qua tiếng cười của
Thảo, dù không biết
lý do nhưng Nhung cũng cảm thấy không khí nhẹ đi
đôi chút. Không lâu, một mùi
xú uế thoảng xông lên. Nhung chợt nhớ mẹ kể rằng chị
Thanh phải cái bệnh cứ sợ
quá thì chị lại đau bụng đi ngoài. Xưa, hồi mới
lấy chồng, chị đến đơn vị thăm
anh, chẳng may đêm đó bị VC pháo kích, chị
"đũn" ra quần. Chị mắc cở
khóc suốt đêm. Ông chồng dỗ mãi chị cũng
không chịu nín. Sáng sớm, chị đòi anh
đưa ra bến xe đò chuyến sớm nhất về thẳng nhà mẹ ở đến cả
tuần. Từ đó, dù anh
Lân bận hành quân mấy tháng không về
được, nhớ vợ nhớ con, nhắn chị đến thăm,
chị cũng nhất định không đi. Nghĩ đến đây Nhung cũng
không nhịn được cười. Nàng
vội đưa tay bụm miệng và thấy mình rung cả hai vai. "Ừ
nhỉ. Sao lúc này mà
mình cười được nhỉ", Nhung nghĩ thầm.
Trời vừa xẩm
tối là Nhung và Thảo đã từ Saigon đi chuyến
xe chót đến nhà ông Cả. Ông Cả
làm nghề
đánh cá ở Chu Hải từ lâu. Ông lại khá
giả, tốt bụng và hay giúp đỡ người cơ khó
nên rất có uy tín với xóm giềng. Ông
bà Cả có bảy người con, năm trai, hai gái.
Các con ông, tất cả đã thành gia thất
và ông có một bày cháu nội ngoại đến
gần
hai chục đứa. Sau biến cố 75, ông nghỉ đi biển. Con ông, ba
người con trai, một
con rể nối nghề của bố. Mấy năm sau này cứ chờ lúc thuận
tiện ông lại tổ chức
một chuyến vượt biên cho con cháu ông đi. Do
đó, họ hàng thân quen ông, ai biết
chuyện đều gởi gấm con cháu họ. Anh Long, cháu gọi mẹ
Nhung là cô, vợ anh là
cháu gọi ông Cả bằng bác nên khi
mẹ Nhung thấy Long đi, bà nhất định gởi Nhung và chị em
Thảo đi theo vì trước
đó, Nhung đã bị lừa và đi hụt
mấy lần.
Theo
sự sắp xếp của ông Cả, chị Thanh đến nhà bà Tư, em
gái ông từ sáng sớm để
"ăn giỗ" ông Tư. Anh Long và Mạnh, thằng con trai lớn mười
bảy tuổi
của anh thì nằm ở kho chứa lưới và vật dụng phế thải
đã hai hôm. Đợi Nhung và
Thảo vào hẳn trong nhà, Ông Cả bảo chị Thêm,
người con dâu thứ hai, đưa sang
nhà bà Tư bằng cửa sau để chờ nửa đêm lên ghe
ngay tại con lạch nhỏ sau nhà.
Con lạch nhỏ
này chỉ có những ngày nước lớn ghe mới đi
lại được mà phải là loại ghe nhẹ nên không ai
nghĩ đó là một khởi điểm tốt cho
những cuộc vượt biên của con cháu ông Cả. Cũng bằng
con lạch nhỏ này, chỉ có
người trong xóm như gia đình ông Cả mới dùng
làm con đường tắt ra bến, nơi ông
neo tàu đánh cá cho gần. Những ngày nước
cạn phơi cả lòng đất nứt nẻ, không ai
qua lại nên bọn công an và du kích xã
không lưu tâm đến.
Cho đến một
hôm thấy đám con cháu ông vơi dần, bọn
công
an hỏi, ông mua lòng heo, rượu đế cho
chúng ăn uống rồi ông mượn cớ say chửi toáng
lên là con cháu ông hư hỏng, chê
nghề đánh cá của ông nắng nôi tanh tưởi
nên bỏ lên Saigon làm du đãng. Ông giận
nên không thèm ngó mặt và cũng
không thích ai nhắc đến những đứa con, đứa cháu
hư hỏng ấy nữa. Được ăn uống no say, bọn công an phường chẳng
tìm hiểu gì thêm
nhưng bọn du kích xã thì bắt đầu để ý.
Chuyến vượt biên mới đây, ông Cả phải
chi cho bọn chúng hai chục cây vàng để chúng
lờ đi. Lần này cũng vậỵ Lúc nãy
Nhung nghe anh Long nói là
ông Cả đang
bị hai phe công an và du kích tranh ăn với nhau
nên ông phải chi cho cả hai
phe. Ấy vậy mà chúng vẫn còn cố bới móc lẫn
nhau.
Bữa cơm tối
dọn ra vội vã và ai cũng chỉ ăn qua loa. Cô
Nhàn, con gái bà Tư vừa rửa xong chén
bát thì có người đứng ngoài cửa sổ
làm
tín hiệu gọi anh Long, bảo rằng tất cả phải đi ra
bãi cỏ phía sau nhà mà trốn
vì có tin là bọn du kích sẽ kiểm tra
hộ khẩu. Thế là tất cả hoảng hốt bỏ cả guốc dép, nối
đuôi nhau ra đây. Chỉ còn
hai đứa con nhỏ của chị Thanh đang ngủ nên đành để lại
trong nhà.
Đột
nhiên trong gió, một giọng đàn ông vọng lại
làm
Nhung trở về thực tại:
- Các
đồng chí chỉ nghe tin thất thiệt rồi làm chúng ta
phí công vô ích. Hồi chiều này đội
tôi đi công tác ở đây có thấy gì
đâu. Vả
lại, các đồng chí du kích ai cũng đề cao đạo đức
cách mạng, noi gương Bác mà
canh gác kỹ lưỡng thế này thì bọn phản động
nào mà dám đưa đầu vào rọ cơ chứ.
- Ấy, đồng
chí trưởng ban công an nói thế thì rất phải
nhưng tụi ngụy nó ghê lắm, phản động lắm. Mình cứ
đề cao cảnh giác là hơn. Hồi
chiều tôi được nhân dân báo cáo
là bọn nó tổ chức đi "tắc xi" từ đây
cơ đấy!
Một tên
khác xen vào:
- Hay
là tụi nó ẩn nấp ở nhà nhân dân đấy.
Mình đi kiểm
tra xem.
Giọng
nói đầu lại ồm ồm:
- Ý
kiến của đồng chí Bảy cũng tốt thôi. Nhưng tôi chỉ
sợ là mất công mà chẳng thu được thắng lợi
gì. Mà đi kiểm tra thế, không khéo
lại phải làm kiểm điểm vì trễ buổi họp trên
xã tối nay đấy.
Nghe đến
đây, chị Thanh hoảng hốt thầm thì:
- Thôi
chết rồi. Nếu lỡ tụi nó khám nhà bà Tư,
thấy mấy
đứa nhỏ lạ nằm ngủ mà không có người lớn, nó
hỏi, mẹ con bà Tư luống cuống, nó
túa ra đây thì chết cả đám. Thảo ơi, Nhung
ơi, để chị vào với cháu.
Thảo vội
vàng:
- Thế lỡ tụi
nó hỏi thì chị nói thế nào?
- Chị
nói là cho con về nhà bà cô ăn giỗ
và đưa giấy
phép đi đường chứng minh cho chúng nó là
xong chứ gì! Hơn nữa, ông Cả đã lo lót
cho thằng trưởng toán rồi. Chắc không đến nỗi nào
đâu!
Thảo
làm ra vẻ sành đời:
- Ấy, thế mới
chết. Nếu thằng này ăn mà thằng kia nhịn,
chúng nó ganh nhau
thì mình mệt.
Nghe chị em
Thảo bàn tính và thấy chị Thanh có
lý, lại
thấy quãng đường từ chỗ núp đến cửa sau nhà
bà Tư nếu "đi" theo kiểu
"ngồi" thì tốn độ năm bảy phút. Nhung phụ họa:
- Đúng
đấy chị Thanh ạ. Thấy trẻ con lạ mà không thấy bố
mẹ chúng nó nghi ngay, lúc đó, nó ra
đây lục soát thì nguy cả đám. Nhất là
anh
Long. Anh ấy mới đi học tập về.
"Được lời như
cởi tấm lòng" chị Thanh vẫn theo
thế ngồi, dùng hai tay vẹt nhẹ từng đám cỏ, cẩn thận "đi"
về phía nhà
bà Tư. Nhung và Thảo hồi hộp nhìn theo dấu chị.
Mỗi "bước" chị
"đi" qua, đám cỏ lao xao nhưng mau trở về vị trí cũ. Lại
cũng may là
có gió. Những cơn gió đồng lõa với những
tiếng xào xạc của cỏ làm sự di
động của chị khó ai nhận biết. Cỏ
lại
cao nên chị chỉ "đi" được vài "bước" là đã
mất dấu. Đoạn
đường ngắn ngủi nhưng thời gian chờ đợi thì lại thật dài.
Sau cùng, Nhung và
Thảo cũng nghe được tiếng cửa mở rít lên. Đến lúc
ấy, Thảo mới hoàn hồn, cô
nhích lại gần Nhung. Hai tiếng thở phào cùng vang
lên một lượt.
- Tội nghiệp
bà Thanh. Nhung biết không, sợ quá, bà
ấy... bà ấy...
Nhung
không nói, gật đầu thông cảm.
Chuyến đi ấy
vẫn không thành. Nhung chán nản tính bỏ
cuộc. Nhưng mỗi lần nhận thư và tiền Lâm gởi về
cùng những lời bóng gió giục
giã là Nhung lại nôn nả tìm mối này,
mối nọ. Liên tiếp trong ba tháng Nhung
nhận cả chục lá thư của Lâm làm nàng
càng thêm bấn loạn. Nàng thương nhớ Lâm
nên rất mong đi được để gặp lại chàng. Lâm và
Nhung yêu nhau từ hồi nàng còn
học trung học và được cả hai gia đình chấp thuận.
Lâm bị động viên, vừa ra
trường khóa Trừ Bị Thủ Đức và Nhung vừa học xong sư phạm
chưa kịp cưới thì mất
nước. Tuy vậy, Lâm cũng phải đi học tập gần ba năm. Đến khi gia
đình Lâm chưng
đủ bằng chứng quốc tịch Pháp và đút lót
khá nhiều Lâm mới được thả về.
Lâm
theo gia đình xuất ngoại do sự can thiệp đặc biệt
của toà đại sứ Pháp ngay sau đó. Trước khi
Lâm đi, họ đã đính hôn. Nếu không
vì
lập gia đình mà Lâm phải ở lại thì họ
đã làm đám cưới. Mẹ Lâm dù thương
Nhung
nhưng bà lại không muốn con trai bà bị kẹt lại
trên mảnh đất có một chế độ quá
ư quái gở này. Bà khuyên Lâm nên
đi trước rồi tìm đường cho Nhung qua sau vì
như thế vẫn dễ hơn. Lâm vâng lời mẹ vì chàng
nhận thấy mẹ chàng có lý.
Khi đến nơi,
Lâm liên lạc ngay với các cơ quan liên hệ.
Ở đâu Lâm cũng chỉ được trả lời là chưa có
chương trình bảo lãnh cho vợ chưa
cưới. Lâm thì chưa đủ điều kiện và thời gian định
cư cần thiết để có thể về
cưới Nhung mà đem nàng đi được. Hoặc nếu có
thì ngày ra đi của Nhung cũng trong
vòng chờ đợi và không ai biết là chờ đợi đến
bao giờ. Thấy Lâm buồn, gia đình
cũng như bạn bè Lâm bàn với chàng rằng đề
nghị Nhung vượt biên. Bàn đi tính lại
thì Lâm thấy chỉ có cách ấy là hay
hơn cả. Mặc dù nguy hiểm thật nhưng nhiều
người làm và đã thành công. Thế
là dự định được thi hành.
Thư và
quà ngoại quốc gởi về đều chịu sự
kiểm soát rất gắt gao. Có khi Nhung nhận lá thư
đã bị
bóc ra mà cũng không dám kêu ca
gì. Để qua mặt được sự kiểm soát đó, Lâm
và
Nhung phải viết cho nhau bằng những mật mã đã dặn nhau từ
trước và chỉ có họ
mới biết được là họ muốn nói gì. Đọc thư
Lâm, Nhung hiểu là Lâm muốn nàng tìm
cách ra đi. Mỗi lần nghĩ đến đi, Nhung lại ngần ngại và
xót xa thương cha mẹ.
Ông bà Đức chỉ có hai người con, Hải và
Nhung. Như bao thanh niên cùng lứa tuổi,
Hải đang ở trong trại cải tạo. Rã ngũ chạy về, Hải đem vợ con về
nhà cha mẹ.
Khi trình diện học tập cải tạo, chàng thật thà tin
tưởng rằng chỉ có mười ngày
như lời họ nói. Chàng an ủi vợ:
- Em ạ, mười
ngày thôi thì cũng chẳng nhiều nhặn gì. Em
và con cứ an tâm ở với ba mẹ. Anh về rồi mình
tính.
Thế mà
gần năm năm rồi vẫn chưa thấy Hải trở về. Ông bà
Đức thương con, thương dâu, thương đàn cháu ngoan
bốn đứa nên đầu ông cứ bạc
thêm, mắt bà cứ yếu thêm vì khóc.
Chút tiền bạc dành dụm được của những ngày
ông
làm cán sự ở bịnh viện từ từ biến thành quà
thăm nuôi cho con trai, bù đắp cho
bày cháu nhỏ. Hạnh, vợ Hải, dù có giỏi
giang tần tảo thì cũng chỉ kiếm thêm rau
mắm giữa thời buổi gạo châu củi quế. May mà bà Đức
còn khoẻ mạnh, săn sóc được
cho lũ trẻ để Hạnh rảnh rang buôn bán. Còn ở
nhà, Nhung còn giúp đỡ cha mẹ lo
cho bày cháu chút đỉnh, nhưng nếu Nhung đi,
bà Đức sẽ mất đi một cánh tay và
chắc chắn là sẽ buồn hơn nữa. Nhưng nếu nàng đi được,
nàng sẽ có điều kiện giúp
cha mẹ và chị dâu được nhiều hơn. Ấy là chưa kể sau
này biết đâu nàng chẳng bảo
lãnh được cho ông bà Đức. Người ta chẳng vẫn đồn
rằng có con cháu đi ngoại quốc
là sẽ có cơ hội bảo lãnh cho gia đình, cho
cha mẹ là gì. Cứ như thế, Nhung với
trăm ngàn nỗi suy tính thiệt hơn, cộng với sự hối
thúc của Lâm làm Nhung như
điên lên được.
Cuối
cùng, Nhung cũng vượt khỏi hải phận VN. Qua một đêm
lắc lư theo tàu mệt lả, đến trưa hôm sau thì ai
cũng ngất ngư. Sóng cấp bốn
và mưa như trút. Chủ tàu nói
phải ra đi vào lúc thời tiết xấu như thế thì mới
có nhiều hy vọng thoát được
sự kiểm soát gắt gao của bọn
công an
biên phòng. Phải liều mới được!
Xế chiều
hôm sau thì trời ngưng mưa nhưng mây vẫn âm u
dày đặc và gío vẫn dữ dằn. Một số đàn
ông gốc hải quân hoặc đi biển đã quen, ít
say sóng hơn nên đã dắt dìu vợ con, anh em
họ lên khỏi hầm tàu. Gần phân nửa là
đàn bà trẻ con. Họ nằm ngồi la liệt trong lòng
tàu và ói mửa lên nhau. Số người
quá say sóng, không lên trên được, nằm
lịm
trong hầm tàu có cả Nhung. Ở đây, nước biển,
dầu máy, và các thứ từ
trong bao tử cho ra trộn lẫn vào nhau thành một thứ nước bầy nhầy, đen ngòm, nồng nặc, hôi
hám và dơ
bẩn. Vũng nước ấy giận dữ xô đẩy nhau theo sự lắc lư nhiều
ít của con tàu và
đôi lúc chồm tới, phủ lên tóc, lên mặt,
thấm vào quần áo những người nằm lại
không chút xót thương. Đã thế, những
gì có được từ trong bao tử của những người
ở phía trên cũng đều cho ra sạch sẽ. Những thứ ấy
hoà cùng nước tiểu khai nồng
của người lớn cũng như trẻ con đã len qua kẽ ván
lòng tàu chảy cả xuống đầu,
xuống mặt, xuống quần áo những người ở dưới. Cũng may mà
Nhung quá say sóng để
không biết thế nào là dơ bẩn, nếu không,
trong hoàn cảnh đó, chắc Nhung cũng
đến chết đi vì ghê sợ.
Tàu đi
được hai đêm một ngày thì sóng bắt đầu
êm. Sang
ngày thứ ba, bầu trời trong lại. Người trên tàu
đã hết ói nhưng vẫn nằm như cá
hộp. Nhung cũng đã lên được khỏi hầm. Quần áo Nhung
đã khô đổi màu lem luốc và
cứng nên mỗi khi cử động kêu
lên sột
soạt. Mái tóc dài óng ả của Nhung
không còn óng ả nữa mà dính bết lại
từng
chùm. Nhung đưa tay vuốt, nàng có cảm tưởng như
chạm phải những sợi dây thừng
ẩm. Một chất dinh dính bám vào tay làm
Nhung thấy ghê ghê, nhờn nhợn.
Nhung
không thấy đói, chỉ thấy dã dượi, mệt và
khát
nước. Mọi người chuyền tay nhau bình nước bằng nhựa và
mỗi người chỉ được uống
mỗi lần một cái nắp bình đầy và uống ba lần một
ngày để cầm chừng.
Đầu óc
trống rỗng, mệt mỏi, Nhung ngồi dựa lưng vào
thành tàu nhìn ra biển cả. Trước mặt nàng
bát ngát một màu xanh thật đẹp. Nắng
buổi sáng rực rỡ long lanh trên mặt nước. Không
có đường chân trời mà biển và
trời là một màu xanh hài hoà kỳ diệu. Ở tận
cùng tầm mắt, biển và trời như nối
liền lại với nhau. Biển quá đỗi hiền hòa. Hiền hòa
như chưa từng bao giờ có
sóng. Biển như một hồ nước mênh mông xanh thẳm với
mặt hồ gợn sóng lăn tăn.
Biển với hai cánh tay bao dung ôm lấy con tàu như
hai cánh tay mẹ hiền dang ra
đón lấy đứa con với vô vàn yêu dấu. Biển
nên thơ và trong lành vô tội. Biển
thật đầy, thật đẹp. Đẹp như tình em cho anh đấy, Lâm ơi.
Nghĩ đến Lâm, Nhung
thấy lòng êm hẳn lại. Cuối cùng, em đã bỏ
hết để ra đi. Em sắp gặp được anh rồi
Lâm ạ. Nhưng cũng vừa nghĩ đến đây niềm vui vừa tới đột
nhiên biến mất. Nhung
chợt thấy lòng mình buồn bã. Ồ, thật thế sao?
Có phải mình đã thật sự rời khỏi
quê hương mình sao? Mình rời xa cha mẹ mình
thật rồi sao? Ơi... Mẹ, một người
mẹ hiền hoà cả đời nhẫn nhục hy sinh cho chồng con. Đời mẹ như
không có niềm
vui riêng và chỉ lấy niềm vui của chồng của con làm
niềm vui của mình. Ơi...
Cha, một người cha hiền lành lúc nào cũng thương
yêu gia đình rất mực. Lúc nào
cũng tiện tặn phần mình để nhường đồng lương bé nhỏ của
mình cho no con, đủ vợ.
Ơi... những đứa cháu ngoan ngoãn dễ thương luôn
luôn chạy theo gọi "cô
Nhung, cô Nhung...." Ơi... bạn bè, ơi tuổi xanh và
ơi kỷ niệm! Nói đến kỷ
niệm, Nhung lại nhớ da diết chiếc bàn học cũ với bao buồn vui
của phần đời. Đó
là chiếc bàn cũ kỹ kê ở góc phòng từ
những ngày còn là học trò cho đến khi
là
cô giáo. Những buổi tối học thi, và lá thơ
tình vụng dại đầu đời được Nhung
viết viết, xé xé trên chiếc bàn đó.
Cũng chiếc bàn đó những lúc Lâm
đến thăm, hai người đã ngồi hằng giờ tâm
sự. Những chồng vở đem từ trường về cũng được chấm trên
đó. Những đêm soạn bài
khuya cũng trên bàn đó và những thư từ của
Lâm cũng được xếp gọn gàng trong
ngăn kéo đó...Tất cả đã xa thật rồi sao?
Ôi... Việt Nam.... Việt Nam, một mảnh
đất thân yêu nhưng cũng đầy đau khổ. Đến bao giờ...
có bao giờ mình được trở
lại quê hương tội nghiệp của mình không? Ngôi
trường với khuôn sân rộng và bốn
cây phượng đầy hoa đỏ ở bốn góc sân mỗi độ hè
về....hình ảnh và khuôn mặt từng
đứa học trò xinh xắn, dễ thương cứ chờn vờn trong trí
tưởng...Thật thế không?
Từ đây, tất cả chỉ còn là dĩ vãng? Đôi
mắt Nhung cay sè. Cơn đau ập đến và
Nhung thấy lòng mình xót xa chìm đắm
vào nỗi tiếc thương. Bất chợt, nàng nghĩ
đến mấy câu thơ:
Ngoái
nhìn quê cũ lòng đau
Bao
hải lý, bấy nhiêu sầu, nước ơi
Mênh
mông những biển cùng trời
Một
ranh trời biển chia đôi muôn trùng...
Người
bên ấy nhớ ta không ?
Ba ơi, Mẹ ơi,
phương ấy ba mẹ có nhớ con không? Còn con,
con nhớ ba mẹ lắm. Cu Bi, cu Tèo, bé Nhè,
bé Mũm ơi, cô nhớ các bé quá. Chị
Hạnh ơi, em nhớ chị. Chị về làm dâu ba mẹ thì em
mới bắt đầu học lớp Đệ Lục.
Chúng ta là chị dâu em chồng mà thương nhau
như chị em ruột. Chị có nhớ những
lần em nấu canh mặn, cơm khô bị mẹ trách, chị nhận cho em
không? Chị có nhớ lúc
em mới quen Lâm, ba bảo em còn nhỏ, cấm em. Nhớ Lâm
quá em buồn ngơ ngẩn. Chị
tội nghiệp, hẹn Lâm đến nhà bạn chị và xin
phép ba mẹ cho em đi chơi với chị để
em gặp Lâm không? Ôi...
bao giờ... bao
giờ em mới lại về. Bao giờ gia đình ta mới lại đoàn tụ
như xưa? ...
Mặc cho những
giọt lệ theo nhau tràn xuống má, Nhung
thấy mặn ở môi nhưng không buồn lau nước mắt. Chưa
lúc nào Nhung thấy bơ vơ,
nhỏ bé và bất lực như lúc nàỵ Nàng
cảm thấy một mất mát quá lớn lao và lòng
tràn đầy đau khổ. Giá của hai chữ Tự Do quá lớn.
Nàng phải đánh đổi bằng cả
tình thương yêu và sự đoàn tụ của một gia
đình. Biển xanh vẫn đẹp nhưng nàng
không còn cảm thấy vẻ đẹp của nó nữa. Tự
nhiên, nàng cảm thấy một nỗi tức giận
trào dâng. Nàng giận cho chế độ tham tàn để
Lâm và nàng phải ra đi. Nàng giận
luôn cả biển. Giận bọn người dã man làm đất nước
đau thương thì nàng hiểu được
nhưng giận biển thì thật là phi lý. Nàng
biết mình vô lý nhưng không thể phân
tích. Ừ, đúng rồi. Cũng biển. Biển đã đưa
mình đi xa để không còn được ở bên
những người yêu dấu. Biển đã chôn sống biết bao
người dân Việt Nam vô tội. Biển
làm bộ hiền lành để che giấu dữ dằn nghiệt ngã của
sóng gió thê lương. Biển giả
dối lắm. Giả dối như những con người từng khoe là nhân
đạo, từng khoe là chiến
thắng. Họ chiến thắng gì và chiến thắng ở đâu? Ừ,
thì cứ cho là họ chiến thắng
như họ khoe đi nữa nhưng thật sự trong tình cảm và
lý trí người dân trên mảnh
đất bị họ chiếm đoạt kia, họ hoàn toàn chiến bại. Nếu
không, sao bao người phải
bỏ họ mà đi? Bởi họ, chính họ. Họ chứ không phải
biển. Họ là nguyên nhân của sự
chia lìa.Họ là nguyên nhân của những
cái chết đau thương tức tưởi. Càng nghĩ,
Nhung càng cảm thấy nỗi đau lớn quá. Bên cạnh nỗi
nhớ thương cha mẹ, ý nghĩ về
những kỷ niệm thân yêu bỗng chốc trở thành
quá khứ làm Nhung như người bị rơi
vào khoảng chân không. Dù có chuẩn bị
tinh thần cách nào đi nữa, Nhung cũng vẫn
không thể chấp nhận mau chóng một đổi thay mất mát
to lớn quá trong đời. Bây
giờ, Nhung mới hiểu rằng tại sao lúc trước nhiều người đã
bước xuống tàu rồi mà
bỏ cuộc. Rằng tại sao ngày 30/4 có những con tàu
đã ra đến hải phận quốc tế mà
sau đó lại trở lại nơi họ nhổ neo. Và chính Nhung,
nàng đã mất bao nhiêu tiền
bạc, công sức để chỉ mong cuộc vượt trốn thành công.
Nay, những giờ phút kinh
hoàng nguy hiểm đã qua và con tàu đang tiến
về miền đất hứa thì cớ sao lòng
nàng lại không vui? Nhung sắp gặp lại Lâm rồi
mà. Trước khi đi, Nhung vẽ cho
mình bao nhiêu là hình ảnh mộng mơ hạnh
phúc khi vượt thoát. Chẳng phải là
Nhung từng ước mong được Lâm ôm chầm lấy bằng hai
cánh tay thương yêu của chàng
và Nhung sẽ khóc trong lòng chàng cho thỏa
niềm thương nhớ đó sao? Chẳng phải
là ai cũng ôm mộng ra đi, dù biết rằng đi như thế
cái chết rình rập và có thể
đến với họ bất cứ lúc nào đó sao? Những ý
nghĩ miên man mâu thuẫn cứ thi nhau
chiếm trọn tâm hồn Nhung. Nàng cảm thấy buồn vui lẫn lộn.
Nghĩ đến sự tàn bạo
của những con người CS, Nhung lại thầm cảm ơn Thượng Đế đã đưa
con tàu ra khỏi
hải phận Việt Nam, đã đưa nàng rời xa quê hương
khốn khổ. Niềm vui dù to lớn
thật nhưng vẫn không đủ làm tan đi bao xúc cảm buồn
đau của kẻ phải rời bỏ
những gì thân yêu nhất. Chưa bao giờ Nhung thấy thấm
thía về ý nghĩa của hai
chữ QUÊ HƯƠNG như lúc nàỵ Cũng như gia đình,
quê hương là một thực thể hiện hữu
mà ai cũng có từ lúc chào đời. Vì
thế, những hình ảnh gia đình, quê hương đã
thấm vào dòng máu, hoà tan trong hơi thở
và gắn bó với tâm hồn. Có xa quê mới
thấy quê hương là một nơi chốn con người đặt bao
tình cảm thiêng liêng và
thương nhớ khôn nguôi. Bởi thế nên qua bao
nhiêu thế hệ, các bậc anh hùng liệt
nữ trong lịch sử VN đã chẳng ngại ngần hy sinh cả mạng sống
mình cho quê hương đó
sao. Thế mà từ nay, với Nhung,
quê hương chỉ còn trong trí nhớ vì đã
xa cách ngàn trùng. Nhung biết là
mình đã
có cái may vượt thoát khỏi gông cùm
cộng sản. Đúng. Trên một phương diện nào đó
và chỉ ở một phương diện nào đó thôi,
nàng đã vượt thoát. Nhưng cùng một
lúc,
nàng chìm đắm và không thể vượt thoát
đươc sự tù đày của dằn vặt nhớ thương.
Một vệt
sóng dài nối cái đuôi tàu với miền xa
tắp rồi chìm
trên mặt biển. Cuối vệt sóng đó là quê
hương. Quê hương mỗi lúc một xa và mịt
mùng trong màu xanh của trời, của biển. Lòng ngổn
ngang mâu thuẫn, Nhung thấy
xót xa thương những người không may mắn còn ở lại
và thương cả kẻ may mắn đã ra
đi. Càng nghĩ, càng buồn. Nhung ngôì bất
động, dựa lưng vào thành tàu, hai cánh
tay vòng lại ôm lấy hai đầu gối như cố giữ lại chút
hình ảnh cuối cùng. Nàng
vẫn nhìn thẳng nhưng không còn thấy rõ
màu tươi xanh của biển trời trước mặt.
Mắt Nhung lại mờ đi. Hình như những dòng nước mắt lại
âm thầm chảy dài trên má
và Nhung lại cảm thấy mằn mặn ở một góc môi.