GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI LÀM TRÂU

 
Ngô Sỹ Hân

thân tặng Phạm Văn Tố và Ngô Thị Ngọc-Dung

 

 

     Cũng như các cô giáo khác, đa số bạn bè của cô Nga là dân chợ. Khi hay tin cô sắp lấy chồng về quê, họ ngạc nhiên lườm:

     - Thành thị không ở, lại đút đầu về quê?

     Những người khác ớn cái cảnh theo ông xã nhà binh rày đây mai đó, lại muốn lấy chồng thầy giáo, hoặc kẹt lắm thì đức phu quân ít nhất cũng là công chức cho hạnh phúc đến đầu bạc răng long:

     - Bộ hết người rồi sao?

     Cô giáo Nga cười phân bua:

     - Không phải hết người, nhưng tìm hoài nay mới gặp người trong mộng!

     Các cô bạn mỉa mai:

     - Chà! Lý tưởng dữ ha!

     Cô Nga hơi mắc cở, phang ngang:

     - Kệ tôi. Thời buổi trai thiếu gái thừa, tôi sợ ở giá như bà dì! Không khéo già kén chẹn hom nghe các con!

     Họ cũng trả lời:

     - Kệ tôi. Bà lo thân bà đi!

     Nga khích:

     - Ừ! Thì thân ai nấy lo. Tôi rán chống mắt đặng xem mấy bà về tỉnh thành hay về quê!

     Như vẫn còn ấm ức, cô giáo Nga gỡ gạc:

     - Sợ lấy chồng nhà binh hả? Coi chừng cuối cùng rồi cũng lên núi sống với cọp hay về rừng chơi với vắt và ngủ dưới giao thông hào!

     Cô giáo Nga nghĩ cũng phải! Thời buổi chiến tranh, không lấy chồng nhà binh chỉ có nước thành gái già! Thanh niên học đại học nửa chừng hoặc mới vừa xong trung học đút đầu vào lính, chưa kịp lập gia đình, mới còn độc thân. Còn mấy ông thầy giáo và công chức sống thọ thì đã có người đặt hàng nâng khăn sửa túi từ trước; làm lễ ra trường xong là vội hớn hở bước lên xe hoa để sớm rút kinh nghiệm cuộc đời cay đắng, “đâu tới phiên mình -trẻ lắm cũng hăm bốn hăm lăm!”.

     Các cô vớt vát:

     - Rồi đời con sẽ khổ nghe con!

     Mặc các cô bạn nói gì thì nói, cô giáo Nga lấy chồng về nhà quê thật. Nhưng cô có ở dưới quê ngày nào đâu mà khổ! Ông xã dám về làm đám cưới đúng truyền thống của tổ tiên chỉ để vui lòng gia đình. Ông anh chồng phải nhờ người bạn, trước học cùng lớp, cho một trung đội Địa Phương Quân giữ an ninh cho đám cưới nhà binh. Đấy là ảnh lo xa vậy thôi. Sau Mùa Hè Đỏ Lửa, mấy anh cách mạng nằm vùng biến đâu mất tiêu hết, chắc đang co cụm. Vành đai an ninh quận nới rộng ra đến tận bên này bờ sông Vàm Cỏ. Có lẽ chỉ trừ đám lá Tối Trời bên quận Bình Phước và quận Tân Trụ còn là chỗ dung thân cho những cán bộ còn sống sót. Lúc này nếu có ai cắc cớ tìm một anh cách mạng để xin đóng thuế đỏ con mắt cũng không ra. Từ ngày lấy chồng cho đến lúc trời xập, cô giáo Nga cũng chưa từng nhìn thấy một tên cách mạng thật bằng xương bằng thịt!  

     Hết cái cảnh đào đường cuốc lộ, hết cái cảnh phóng loa kêu gọi lính Nghĩa Quân bỏ đồn theo giặc. Lính tráng và cán bộ Xây Dựng Nông Thôn vô tới tận thôn làng. Họ chơi với con nít, dạy đám trẻ hát, giúp bà con sửa nhà chữa cửa, làm ruộng làm nương; tối lại còn nhậu với đám thanh niên và mấy ông già gân. Điện chưa về làng nhưng ánh sáng văn minh lấp ló đâu đây. Sáng tinh sương trên con đường làng dẫn đến chợ, các cô gái yêu đời nhí nhảnh trong những bộ đồ bà ba cổ trái tim màu mè, cười giỡn líu lo như là sống trong cảnh thái bình. Dĩ nhiên, hơi quê mùa nhưng không đến đổi nào. Rải rác cũng có người học hành đỗ đạt làm công chức, làm thầy cô giáo ngoài thành, và đi sĩ quan khắp bốn vùng chiến thuật. Là dân chợ, cô tự an ủi tại vì hai người “yêu nhau hết biết” thì phải chịu thiệt thòi một chút cũng không sao!

     Tuy nhiên, điều khiến cô giáo tự hào về gia đình chồng không phải là ngôi nhà ngói móc ba gian hai chái, cái sân gạch tàu phơi lúa rộng thênh thang, và vườn dừa sai trái hầu như bốn mùa..., mà là một gia đình nhân từ và đạo đức, được nể vì của lối xóm. Ông cha chồng không học nhiều nhưng còn nhớ đủ để trâm tiếng Tây được với anh Thống học sinh ngữ thứ hai Pháp văn với thầy Lê Văn Nguyện. Ngược lại, bà mẹ chồng mù chữ như đa số người đàn bà ở quê vào lứa tuổi ấy. Bà rất mực nhân từ nhưng nếu diễn tả thì nhiều khi vô tình hay vụng về làm giảm cái lòng nhân ái của bà đi. Ông bà, do cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, ở với nhau từ hồi chưa đến tuổi hai mươi cho tới lúc bạc đầu, chỉ sinh được hai thằng con trai rồi ông trời bắt nghỉ luôn không cho biết lý do. Ông anh lớn làm thầy giáo chưa lập gia đình, chỉ một mình phu quân của cô giáo là sĩ quan. Bà con lối xóm nói nhà có phước mới có người làm quan!

     Nhưng sau ngày cách mạng thành công, gia đình bác Tám “có phước mới có người làm quan!” tự nhiên trở thành ngụy, mặc dầu từ trên xuống dưới ai ai cũng mẫu mực đàng hoàng, chớ không hề đầu môi chót lưỡi, giả nhân giả nghĩa, và tranh sống bằng cái mánh lới mới của cách mạng! Con nít lối xóm gọi bác là ông nội ông ngoại như ruột thịt. Đám trẻ xem hai bác như cha mẹ, tá điền lớn tuổi thì coi như anh cả, ông bà già thì như anh em bè bạn; trong vùng này không ai có thể lớn tuổi hơn bác được nữa. Từ bao nhiêu đời, dòng họ ông không có truyền thống tham gia chính quyền làm ông cả ông chủ trong làng, chỉ là thường dân Nam bộ. Dù vậy, cũng nhờ có hai thằng con ăn học mà gia đình được thơm lây. Cưới hỏi, đình đám, đơn từ một tay hai anh học trò. Tết nhất họ mang quà tặng đầy nhà cho dù ông bà không nhận họ cũng bỏ đấy, chạy băng qua cái sân gạch mà về. 

     Ngay tại ngỏ, dù không có cổng như đình làng hay của những gia đình khá giả khác, bác Tám kiểu cách trồng hai khóm hoa dâm bụt cao tới cổ người lớn, lá xanh mướt và bông đỏ lòng thòng trông không giống như cái lồng đèn xưa thu nhỏ lại. Phía bên trong khóm hoa khoảng hai thước là cái cầu thấp dùng để rửa chân trước khi bước lên hai hàng gạch xi-măng ước chừng bốn năm mươi thước dẫn vào nhà. Người ta không thấy tượng Phật, hình Chúa, Khổng Tử, Lão Tử, Quan Công..., mà chỉ thấy hình ông bà tổ tiên theo thứ tự ba đời trên bàn thờ. Bộ trường kỷ chạm trỗ cầu kỳ ở gian giữa dùng tiếp khách quý trang trọng khi có đám tiệc; hai bên là hai bộ ván gõ đỏ lên nước bóng láng nhờ bác trai ở trần ngủ trưa hầu như quanh năm, mãi cho đến cái ngày lỡ khóc lỡ cười!    

     Lúc mới đổi đời, tự nhiên thằng Hai Cò mua ve chai được làm bí thư xã. Con vợ nó giờ đây đổi lốt cho khác với đám đàn bà con gái thường dân; trong bụng không có bếp lò mà nó cũng hét ra lửa được! Tay chân bộ hạ của vợ chồng thằng Hai đa số dân cô hồn các đảng miệng bằng tay tay bằng miệng nên dân ngụy phải sợ! Nếu thế cũng chưa đủ, nó phải dùng thêm một số con nít mới lớn biết đọc biết viết để làm giấy tờ. Không biết do lệnh trên hay chạy theo mốt cách mạng, mấy cô cậu cách mạng ba mươi người nào cổ cũng quấn khăn rằn đỏ, mang một cái túi dết cán bộ nhập từ miền Bắc, và mang dép râu của bộ đội nên đi đường đồng trợt lên trợt xuống!     

Thằng Hai Cò mang súng lục đi với thằng phụ tá đến từng nhà ra lệnh bắt treo cờ xanh đỏ sao vàng và hình ông già râu lên bàn thờ. Bác Tám không thể làm trái nhưng có ý kiến khác với văn hóa cách mạng một chút. Ông tửng tửng theo kiểu kẻ cả:

     - Bàn thờ ngay chánh giữa nhà là để thờ tổ tiên ông bà. Cờ và hình thì tao có treo rồi đó!

     Anh bí thư bây giờ phát tài phát tướng thành bí thơ Hai Mập, không còn là thằng Hai Cò nữa. Nó làm lớn như thế mà không hiểu sao sau lưng hắn, người ta vẫn gọi bằng thằng, thằng bí thơ. Nó nài nỉ:

     - Còn hình Bác Hồ? 

     Hình như Bác Tám khoảng tuổi con heo hoặc con chuột hay trẻ lắm cũng con cọp, biết thằng bí thơ Hai Mập dốt đặc, nói đại: 

     - Tuổi ổng là bác của tụi bây chớ bác tao sao được?

     Thằng Hai Mập, không biết Bác Hồ của nó bao nhiêu tuổi, nhìn theo ngón tay bác Tám chỉ:

     - Bây xem hình tao treo chỗ cao nhứt và sạch sẽ nhứt đó! Tao vẫn kính trọng ổng, tao kêu ổng bằng ông Hồ hay ông chủ tịch mà! 

     Hai Mập đuối lý nói lảng qua chuyện khác để gỡ gạc. Gương mặt hồng hào của nó chuyển sang màu “đấu tranh chánh trị”:

     - Anh Thống có nhiều nợ máu với nhân dân, cách mạng...

     Hiểu thằng bí thơ sắp trả bài, bác Tám cướp lời:

     - ... Thôi! Nó có tội để cách mạng trị nó, không liên quan gì tới tao. Cách mạng vẫn nói “ai làm nấy chịu” mà!

     Mấy ông anh của bác Tám trước khi hy sinh cho cách mạng có nói “ai làm nấy chịu” nên chính quyền Quốc Gia không dám làm gì gia đình ông hết! Nghe phong thanh hình như chính bác Tám cũng có tham gia một thời gian. Anh thầy giáo kể lại rằng Hiệp định Sơ Bộ mồng Sáu tháng Ba tăng cường thêm sự hoài nghi của bác Tám. Hoặc là im lặng nhịn nhục tới đâu hay tới đó hay là đi mò tôm [1]. Cách phản đối tiêu cực nhất và đỡ nguy hiểm nhất là bỏ về. Thừa kế chưa tới một mẫu, ông già gân suốt cuộc đời làm lụng vất vả mới dư được mấy mẫu ruộng và căn nhà ngói, và ráng cho hai thằng con trai ăn học nên người. Thằng anh nối gót theo chú nó đi dạy thầy giáo rồi. Còn thằng nhỏ, thời buổi giặc giã, phải đi lính thôi, chớ chẳng lẽ bỏ vô bưng theo mấy thằng thất học:

     - Thắng làm vua, thua là giặc. Chuyện đời mà!

     Nhiều lúc nhìn mông lung ra ngoài, bác mơ màng đến những mùa xuân thanh bình cách đây không lâu. Lúc ấy tụi trẻ con tung tăng trong những bộ quần áo còn thơm mùi hồ đi chúc Tết ông bà để hí hửng nhận những đồng tiền lì xì mới còn thẳng nếp mang theo vào giấc ngủ mộng mơ. Bác nghĩ đến những nương mạ non màu đọt chuối đầu mùa và màu xanh lúa trổ đòng đòng mởn mơ con gái. Bác nghĩ đến cánh đồng lúa vàng trĩu hạt mùa gặt, gánh về phơi đầy sân gạch. Trả công trâu cày và thợ thầy xong, dư tới mấy thiên. Cái bồ lúa ba tầng cao gần đụng nóc nhà kho. Thuế má có bao nhiêu, chẳng qua như tiền ăn bánh! Chỉ cần mấy mẫu ruộng đồng cũng đủ sống tàng tàng -ngôn ngữ của bác- ở cái xứ quê mùa này: 

     - Hồi thời ông Diệm bình yên biết mấy! Cả đến thời ông Thiệu, họ cũng đâu có hành mình như mấy thằng này!

     Bác gái nghĩ đời nào mình cũng làm dân, ai làm hội đồng xã hay chủ tịch nước cũng được, nhưng hoang mang không ít:

     - Thời buổi gì kỳ: Muốn làm gì thì làm, muốn nạt ai thì nạt, muốn lấy của ai thì lấy! Coi dân như con nít. Thời Tây đô hộ cũng chưa đến đổi như vầy!

     Như mọi khi, ông an ủi:

     - Bà à! Hết rồi những ngày tháng bình yên.... Tôi đã nói trước. Còn gì nữa mà tiếc!

     Không biết gia đình ngụy này có bị ghi tên vô sổ bìa đen của anh bí thư cách mạng ba mươi không nhưng anh ta không ép nữa. Cờ đến tay, vợ chồng Hai Cò dẹp cái nghề mua bán ve chai khổ nhọc. Hồi trào ngụy, nó chỉ mơ được một chân làm lao công ở trường học Tiểu học Tân Chánh cho nhàn tấm thân và đỡ vợ con. Chính nó cũng không ngờ nó nhảy một bước đến chín tầng mây xanh. Đúng như cách mạng nói “chết là cùng -chết là hy sinh cho cách mạng còn hơn sống vất vưởng, mà thắng thì cái gì cũng có...”. Nhưng không dưng người ta mang của đến cho mình à?! Cũng phải dùng cái gì đó mới khiến người ta đưa tiền chớ! Dâng tiền mà ngược lại họ phải cám ơn mình đã nhận nữa! Sống cuộc đời cán bộ cách mạng ở cái xứ này, giấc mơ đã thành hiện thực: Nhà đúc bê-tông, mái ngói móc, tường tô...; nếu ở chợ thì anh cũng phải có cái ô-tô con! 

     Cuối cùng thì không thấy hình ông già râu gian ác đâu. Bác Tám xối nước trây đất cho lem luốt đem dấu đi ở một góc kẹt nào đó. Ông chuẩn bị câu trả lời nếu bị nó hỏi:

     - Bị mưa dột ướt hết trơn rồi. Để mai mốt tao sẽ mua cái khác đàng hoàng đẹp đẽ hơn thay.

     Thấy ông cương với thằng bí thơ Hai Mập, bác Tám gái lo lắng nhìn ông:

     - Ông à! Thời buổi sâu bọ làm người, ông coi chừng tụi nó! Tụi này không hiền đâu!

     Trái với tâm tính nhân từ và độ lượng, tướng tá bác Tám cao lớn, vạm vỡ, và mặt mũi bặm trợn. Bác chỉ cần đứng dậy là anh bí thư tưởng bị tấn cống, định chạy liền:  

     - Bà đừng lo! Tôi biết đánh thì tôi phải biết đỡ chớ!

     Bác gái cũng ậm ừ:

     - Ờ! Để đó cho ông đỡ!

     Bác Tám cương thêm:

     - Má nó à! Trâu già đâu nệ dao phai!

     Ông già trong tư thế chuẩn bị hoài mà nó không đánh cho ông có dịp đỡ. Rồi thời gian nhục nhằn ngày này qua ngày khác chồng thêm gánh nặng khiến tâm hồn bác trai chai đá và lưng bác gái còng thêm. Hai bác không biết ông bà tổ tiên đã sống ở cái đất này từ hồi nào. Nhưng mở mắt ra là bác đã nghe tên và lớn lên chút nữa là biết cái bến đò Bà Nhờ, cái Xóm Vồng, Ấp Chợ, Xóm Bà Lựu, Xóm Lưới...; kéo lên đến ngã ba Tân Lân, Nhà Dài, và con tỉnh lộ 18; đổ xuống Kinh Nước Mặn, đồn Rạch Cốc; qua Cầu Nổi, Mỹ Lợi, tới Vàm Láng.... Bác biết cả tiên nhơn của mấy thằng cách mạng ba mươi và thằng bí thơ này không sót một chỗ nào. Tụi nó mượn nợ ai rồi quịt luôn thế nào, đi ăn trộm bị lính Nghĩa Quân bắt quả tang ra sao, bác biết hết mà bác chưa hề kể cho ai nghe.

     Bác trai giải thích:

     - Hồi xưa chánh quyền người ta dùng người có chữ nghĩa. Bây giờ không xài mấy thằng này thì xài ai? Người có học và đàng hoàng ai chịu làm tay sai cho tụi nó! 

     Khi có dịp ngồi chung với gia đình, bác gái tâm sự:

     - Ba má ít học không có nhiều tiền của ruộng nương. Ăn hiền ở lành chỉ mong để đức lại cho con cháu.

     Còn ông già thì xác quyết như đinh đóng cột:

     - Ở hiền gặp lành. Ở ác gặp ác. Ông trời coi vậy mà có con mắt. Quả báo nhãn tiền chớ chẳng đâu xa!

Nhưng điều xác quyết của bác Tám ít nhất tới ba bốn năm rồi chưa ứng nghiệm. Mới trước ngày ông Dương Văn Minh tuyên bố buông súng, lối xóm còn nể nang và vồn vã gia đình có người làm thầy giáo và làm quan, mà bây giờ tự nhiên xa lánh. Họ lấm la lấm lét, không dám nói chuyện cũng không dám lại gần, chắc sợ vạ lây! “Liên hệ với ngụy quân ngụy quyền” mất mạng như chơi, “nếu không chết thì cũng èo uột khó nuôi”, không sợ sao được?! Gia đình sĩ quan và công chức chế độ cũ trong xóm ấp cũng cùng chung số phận, chớ không riêng gì gia đình bác Tám.

     Trong hai người con của bác, anh Hai làm thầy giáo chỉ mới bị xài xể sơ sơ nên chưa mất dạy, bị buộc tội gián tiếp dạy cho “bọn ngụy tụi nó” đỗ đạt đi sĩ quan chống phá lại cách mạng. Còn anh Thống đi giang đoàn hay giang thuyền hay giang đĩnh gì đó không hề làm hại một sợi lông của cách mạng. Anh chỉ giết mấy thằng Việt cộng phá làng phá xóm thôi, theo lời thành thật khai báo khi ở tù! Thậm chí anh cũng không trực tiếp cầm súng bắn mà chỉ ra lệnh cho xạ thủ bóp cò. Vì không có nhiều nợ máu với nhân dân nên ở tù chưa tới ba năm thì được về sớm. Hộ khẩu thì Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã chuyển sang Hoa Kỳ từ năm 1975, vợ chồng anh sĩ quan và cô giáo trẻ phải về quê ông già làm ruộng. Nhưng cách mạng đã lấy gần hết rồi, còn lại mấy sào gia đình năn nỉ cách nào họ cũng không chịu cày cho mình.

     Nước đã nổi, hầu hết ruộng người ta đã cày rồi, chỉ phần của đám ngụy quân ngụy quyền là còn nguyên. Anh con trai dù lo lắng nhưng có vẻ chịu đựng, nhìn cha mẹ:

     - Ba má đừng lo! Con đã có cách.

     Bác Tám trai nôn nóng:

     - Cách gì? Nói tao với má mày nghe đi!

     Anh Thống giải thích:

     - Tụi nó không cày thì mình làm trâu cày!

     Sống từ đầu thế kỷ Hai Mươi tới lúc Đức đánh các nước Âu châu, rồi đến Nhật đánh Pháp tại Đông Dương, bà con và gia đình bác sống lầm than khổ sở trăm điều, nhưng bác Tám cũng không hình dung có cái ngày này, cái ngày thành công của cuộc cách mạng vô sản, mà thằng con sĩ quan nhà ông phải thế trâu cày ruộng!

     Bác nghi ngờ: 

     - Được không? 

     Anh Thống nhìn ông già:

     - Mỗi bên ba con trâu người! 

     Bác Tám thở dài:

     - Coi vậy mà không dễ như hồi xưa tao làm trâu cho hai đứa bây cỡi đâu! 

     Cái lưng thớt của bác gần bằng cái mặt ghế, bác gái cỡi còn được huống hồ gì trẻ con! Thằng em ngồi trước, thằng anh sau, kẹp chân vào bụng và ngực ông già; hai anh em khoái chí cười “hắc hắc”, còn nhún lên nhún xuống khiến bác gái xót ruột cho ông chồng, cứ sợ gãy xương sống nằm một chỗ chẳng làm ăn gì được. Bác bảo các con phải nhẹ nhàng như cỡi con nghé! Ông thầy giáo và ông sĩ quan tiếc rằng từ lúc bắt đầu đi học lớp vỡ lòng - kể như người lớn - thì hết còn đặc ân ấy nữa!

     Bác Tám gái lên tiếng:

     - Hồi xưa ông chỉ làm trò cho tụi nó cỡi thôi! Bây giờ phải thế trâu kéo cây cày thiệt!

     Quay sang Thống chia sẻ, bà hỏi:

     - Làm sao kéo nỗi, con?

     Thống quả quyết:

     - Trong tù, tụi con đã cày rồi!

     Cô giáo Nga bủn rủn tay chân. Không có bầu mà cái cổ dài ra, tong teo ốm yếu vì phải đi bộ hàng ngày và ăn độn khoai lang. Bụng lép, ngực cũng lép; ai không biết cứ tưởng là đứa học trò con nhà nghèo chừng khoảng mười một mười hai tuổi. Vậy mà cô vào lớp sau khi có trớn, người ta không ngờ trong thời xã hội chủ nghĩa lại có một bộ óc đề kháng khôn ngoan đến đổi vài lần bị mời lên văn phòng làm việc! Cô nhớ lại bài học bồi dưỡng chính trị cho giáo viên nói từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa -một xã hội khoa học tiên tiến, phải hiểu ý nghĩa sâu xa là hồi trước dùng máy cày thay trâu, bây giờ dùng sức người thế máy cày!

     Nhìn khuôn mặt nhợt nhạt thất vọng của vợ, anh Thống an ủi:

     - Nga đừng có quá bi quan!

     Cô giáo sư dạy sử địa xuất thân trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn tên Ngô Thùy Ngọc-Nga nhỏ thó như đứa con gái suy dinh dưỡng và vàng vọt như người mắc bệnh sốt ngã nước, ngồi đây, mắt mở mà như đứng tròng nhìn những người thân tàn lụi dần theo năm tháng. Cô cũng như đa số thầy cô giáo trong tỉnh được lưu dụng để tiếp tục làm kỹ sư tâm hồn cho thế hệ kế tiếp cũng may mắn nhờ ông Trưởng Ty Giáo Dục tỉnh Long An gốc là thầy giáo hồi kết! Dù cách dạy và những gì phải dạy không đúng theo ý mình hoàn toàn nhưng ít ra cũng còn là sở trường. Nhưng những nơi khác, và nhất là sỹ quan, công chức, và cán bộ, trình độ đại học mà đi làm ruộng, cuốc đất trồng khoai để mỗi ngày cầm hơi bằng bữa đói bữa lép và giải trí bằng đọc báo quốc doanh! 

     Chiều lại anh Thống bàn với đám “ngụy quân ngụy quyền”:

     - Hộ khẩu ở đây, làm sao đi đâu được? Hết cách rồi! Mình áp dụng bài bản cũ trong tù đi! 

     Vì mấy người bạn không ở chung trại Trảng Lớn -Tây Ninh nên còn thắc mắc:

     - Là sao, mậy?

     - Cày người ông ạ! Ba thằng bằng một con trâu!

     Mọi người mới vỡ lẽ ra, thở dài chán ngán:

     - Tưởng tù-trong chúng nó bắt mình cày không cách gì tránh được, không ngờ tù-ngoài mình cũng phải tự nguyện bổn cũ soạn lại!  

     Thế là mấy người tù-ngoài trong phút chốc trở thành trâu hết, không anh nào thoát được. Nhưng nếu được làm trâu thật cũng sướng chán! Chỉ làm việc chừng nửa năm là cùng, có nơi chỉ trong mấy tháng. Không bị mấy thằng cóc cắn hành hạ đánh đập như các anh cải tạo. Cây roi chỉ để hù cho đừng lơ là công việc đồng áng. Cày bừa xong về nhà nằm nhơi cỏ, mùa lúa thì nhơi rơm khô còn hơn khoai mì H34 tồn kho hư mốc. Không ngủ, mắt lim dim nhìn mấy anh chị cách mạng ba mươi, mà khinh bỉ trong lòng, mong có ngày họ sáng con mắt ra. Lại khỏi đi họp tổ mỗi buổi tối để nhàm tai nghe mấy ông quan con cách mạng ba mươi nói xàm nói điên, và để ngoáy lỗ tai nghe những lời chửi rủa buộc tội.

     Trong một xóm nhỏ, nghèo, và kém văn minh như thế, dễ gì mà kiếm đủ bảy ông quan để thành lập một ê-kíp cày. Không đủ sĩ quan làm trâu, phải bắt công chức chế độ cũ; ngoài ra, còn phải tập cho thanh niên em út của gia đình ngụy quân ngụy quyền làm trâu luôn mới đủ trâu cày. Bộ đồ nghề cày có sẵn, nhưng dây dàm và cây roi không xài tới! Cái ách nhà nghề đẽo cong cong cho vừa cái cổ trâu cũng không dùng nữa, mà cái ách bây giờ phải đủ dài cho sáu người, nhưng cũng không quá ngắn cho “trâu” khỏi đụng nhau. Cây dẽo quá thì oằn, mà dùng loại gỗ cứng quá thì dễ gãy, ngay chính giữa dành cột cây đõi nối với cái cày mà một con người làm việc nhẹ -đàn bà con gái cũng được, không kỳ thị nam nữ- theo sau để thá dí cho khỏi lõi đất. Quý quan chuẩn bị đâu đó xong xuôi, quyết định ngày hôm sau ra quân.

     Quen kỷ luật nhà binh, ngay sáng sớm khi mặt trời cách mạng chưa thức dậy, quý quan đã tập hợp điểm danh như trước khi hành quân thật, hay ít nhất trong quân trường. Dù được coi là cải tạo tốt mới được cách mạng khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình và làm trâu thế con trâu thật mà cày, nhưng quý quan cũ vẫn chưa bỏ được lối sống tiểu tư sản! Bên đống lửa lùi khoai lang vừa để đuổi bù mắc, còn có café, trà hoa ngâu, và thuốc rê Long Khánh -vẫn hơn dế[2] và thuốc giả[3] trong tù!

     Một anh nhìn những sợi khói lửng lơ tan chậm vào không gian, hồi tưởng:

     - Như tráng đoàn đi cắm trại!

     Anh khác nhớ cuộc tình dang dở và ngày tự nguyện xách ba-lô rào rọ: 

     - Thật không ngờ! Như giấc mơ!

     Một anh ngồi bẹp trước lò dã chiến đang dùng cây que khều khều những cục than hồng, thấm thía về quyết định ở lại vì không nỡ bỏ người yêu. Giá anh đi thì cuộc tình vẫn đẹp:

     - Mơ còn có thể gặp em. Ác mộng thì có!

     Anh nào đó xổ nho:

     - ĐM! Sáng tạo xã hội chủ nghĩa mà!

     Cứ nghĩ chuyện chưa đánh đấm đã phải buông súng, anh khác hằn hộc:

     - Tao cứ ấm ức hoài! Đâu phải mình dở! Phải chi tụi nó giỏi hơn mình và văn minh hơn mình cũng cam! Giải phóng cái gì? Mình không giải phóng nó thì thôi! Sao nó lại giải phóng mình?

     Anh Thống vốn ít nói ngồi nghe các bạn thảo luận kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa cho đã, hai bàn tay đang vấn điếu thuốc rê. Anh le lưỡi liếm cho mép nó dính lại:

     - Tụi bây phải học tánh kiên nhẫn của Nguyễn Công Trứ! 

     - Thắng không kiêu bại không nản!

     - Không phải đâu! “Thắng không kiêu bại không nản!” là binh thư. Còn của Nguyễn Công Trứ là lên voi xuống chó cũng tàng tàng như nhau! 

     Đang nói, bất chợt anh Thống xuống hò dứt câu sáu vọng cổ, tất cả cùng cười vui vẻ cứ như là ở đơn vị khi xưa. Bề ngoài có vẻ an phận, nhưng trong tận cùng, tuy các anh không nói, người ta cảm giác có cái gì cay đắng mỉa mai!

     Anh vừa phát biểu cãi:

     - Đảo đời chớ lên voi xuống chó gì? Lên voi xuống chó khác!

     Một anh gắp cục than đưa cho Thống:

     - Lửa nè, Thống!

     Anh khác phê bình:

     - Chà! Ngon lành như còn làm sếp!

     Anh phân bua:

     - Kệ, để tao điếu đóm cho nó! Coi như phần thưởng cho mầm non văn nghệ! Còn sếp tao hả? Đừng có hòng! Chuyện này để tụi nhỏ làm!

     Không khí mát dịu nhưng ẩm thấp. Nghe mùi cỏ quê hương ngọt lịm từ dưới những bàn chân đất. Lâu lắm mới nghe lại tiếng chim ríu rít trong tàng cây. Lâu lắm mới gặp lại giọt sương long lanh buổi sớm.   

     Đến giờ, anh Thống ôn tồn kết luận:

     - Thôi bỏ mấy chuyện đó đi! Bây giờ rán hy sinh chịu cực để mai mốt con cháu mình được khổ! 

     Đồng ý “Bây giờ chịu cực đặng mai mốt chịu khổ”, theo sự phân công trước, quý vị sĩ quan chiếu theo nhiệm vụ thi hành mang đồ nghề ra ruộng. Dù có mấy năm kinh nghiệm trong trại, không dễ sắp xếp một dàn cày với sáu người cao thấp không đều nhau. Ruộng dân và ruộng chính sách trâu đã cày xong, bây giờ dân cách mạng hay có hơi hướng cách mạng lo làm cỏ, bang đất, phản bờ, chuẩn bị đất, trong lúc ruộng ngụy mới bắt đầu. Nước lên cao quá cũng khó cày cho chính xác mà không bị lõi. Cày trâu cách mạng dù gì cũng không bằng cày trâu thật!

     Không biết anh nào có óc văn nghệ lên tiếng:

     - Nếu có máy hình, đứa nào đứng ngoài chụp một pô đặng tao gởi đi tranh giải phóng sự nhiếp ảnh, và đồng thời ghi vào sách kỷ lục Guinness! 

     Vậy là cả làng Tân Chánh phải học sáng kiến của mấy anh tù này. Quả là hiện tượng lạ lùng, rất mới mẻ, dân miền Nam vốn lạc hậu, từ tạo thiên lập địa tới giờ chưa hề nghe sách vở nào nói, và cũng chưa bao giờ dám nghĩ tới. Cả đám dân cách mạng hồ hỡi xem quên thôi. Họ trầm trồ “không ngờ mấy ông ngụy đi cải tạo được cách mạng dạy cho phương pháp tận dụng nhân lực”. Đúng là thời cách mạng, cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật..., dưới sự lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ loài người! Trước khi cách mạng thành công, rải rác đã có người mua máy cày nên trâu bán đi cho những vùng khác. Rồi máy cày cũng được cách mạng trưng dụng về nông trại của quý anh lớn trên tỉnh Long An hay ngoài trung ương Hà Nội!   

     Trong khi Thống và đám bạn tù-ngoài làm trâu cách mạng cày dưới ruộng, cô Nga xăng quần xách dép lội ra quận cách nhà ba cây số làm giáo sư dạy sử địa đệ nhị cấp. Chính nơi này trước đây mấy năm, máy cày thế trâu cho nhiều năng suất, thì mới chỉ hơn ba năm sau, viễn ảnh đất nước rừng vàng biển bạc qua cuộc cách mạng vô sản khiến sĩ quan công chức thay trâu kéo cày. Nga tưởng tiền nhân đời thứ nhất theo bà tổ Âu Cơ lên núi lập nghiệp đang làm việc. Cô xây xẩm tối mặt như bị máu xâm. Chân phải đá chân trái nhiều lần, cố kềm cho khỏi té. Nhưng khi khom xuống lượm đôi dép lại làm rớt cái cặp. Hai củ khoai lang lăng long lóc ra ngoài. Tập soạn bài phải trình cho hiệu trưởng duyệt dính đất lem luốt. Thân 38 ký mà như nặng ngàn cân khiến cô có cảm giác như ngồi trên phi cơ phản lực đang cất cánh. Nếu không nghĩ đến lời chồng chắc cô sẽ bỏ cuộc. Nếu không nhớ tới thái độ của ông cán bộ cách mạng chắc cô đứng dậy không nổi.

     Ông cán bộ đó không ai xa lạ mà là bạn học của anh chồng cô. Anh chồng của cô đi học sư phạm làm thầy giáo, còn ông ấy bỏ học đi theo giặc từ những ngày giặc mới nổi. Dù sau này khi được tín cẩn ông đi đâu cũng kè kè khẩu súng sáu bẻ cổ, nhưng người ta vẫn gọi ông là Mười Búa, vì trước kia ông có thói quen xử tử người ta bằng búa. Khi cách mạng thành công, ông Mười Búa còn sống sót trở về làm trưởng ban giáo dục huyện Cần Đước. Trong buổi họp giáo viên quận, ông sỉ vả những cô giáo có chồng cải tạo, trong số đó có cả những cô đã dạy ông ta học. Không biết sự thể thế nào, Mười Búa buộc tội ông thầy của ông ta trước kia là giáo sư Lê Kim Tiếng làm tay sai cho CIA đã chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia bắt mấy đồng chí của ông nằm vùng trong đám học sinh Trường Trung học Cần Đước.     

     Sau khi qua cái cầu nhỏ xóm Cẩm Hà, cô giáo Nga ghé bệ đá bờ sông rửa chân mang dép vào trước khi bước lên con đường đá đỏ dẫn tới trường. Đối diện với cổng trường là ngôi nhà cha mẹ nơi cô sinh và lớn lên và ở suốt thời gian dài cho đến khi chồng ở tù trở về.

     Bác Tư dịu dàng nhìn con gái khóe mắt đỏ hoe:

     - Con có chuyện buồn?

     Tự nhiên như hồi còn con nít bị giật đồ chơi, cô òa lên khóc ngon lành không cầm được. Bác Tư nắm tay con, vuốt mấy sợi tóc trên trán và sau ót ướt đẫm mồ hôi, như những lần cô gặp tình huống khó xử trong đời. Bà chuyên môn may áo dài mà cô giáo con gái bà mặc áo bà ba cũ đi dạy học. Cách mạng thành công mới chừng ba năm mà con gái bà đã thực hiện một bước cách mạng nhảy vọt! Sao nó tiều tụy quá? Dáng dấp nó trông giống cô Hai Đàm bưng rổ bánh khoai mì bán dạo thường ngang qua nhà bà mấy năm nay.

     Bác Tư nhẹ nhàng như van lơn:

     - Có chuyện gì nói má nghe!

     Cô Nga nghẹn ngào ngập ngừng:

     - Hồi sáng này... mấy ảnh làm... trâu... cày!

     Bác Tư chưa hiểu:

     - Con nói cái gì trâu cày?

     Cô giáo giải thích sáng kiến của chàng rể cho mẹ nghe:

     - Không ai chịu cày. Mấy ảnh phải thế con trâu làm con trâu mà cày ruộng!

     Sống qua mấy thời kỳ bị giặc đô hộ, Bác Tư có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi với kiến thức của một sĩ quan, dưới ánh sáng quang vinh của cuộc cách mạng vô sản, bây giờ cày thế trâu!

     Qua ngấn lệ, bà nghẹn lời: 

     - Trời ơi! Rồi cày được không?

     - Con không biết. Nhưng không được cũng phải được thôi!

     Ngừng một chút, cô Nga mỉa mai:

     - Cách mạng dạy phải khắc phục mà!

     Bà bồi thêm:

     - Ờ thì khắc phục. Khắc phục là tự lo liệu. Khắc phục là chịu đựng. Khắc phục là bảo sao nghe vậy mà!

     Bác Tư nhìn con. Nó học ngôi trường này. Nó học sư phạm rồi có thời gian cũng về dạy ở ngôi trường này. Cấp trên của nó có giáo dục và lịch sự chớ không vô học và sỉ nhục giáo sư như thời này. 

     Chợt nhớ ra, bác Tư nghĩ không biết có nên nói hay không:

     - Có thằng gì nó nói bạn học cũ của con ghé tìm con.  

     Cô Nga tỉnh táo:

     - Con biết rồi. Nó đã ghé trường.

     Bác Tư hốt hoảng:

     - Con làm sao?

     - Không việc gì má phải sợ! Bộ ỷ cách mạng thì muốn làm gì thì làm sao?

Không biết bác Tư sợ gì nhưng bà vẫn sợ. Chắc bà sợ hơi cách mạng! Không nói rõ ràng nhưng cách mạng muốn làm gì thì làm, ai biết được. Cách mạng đã đưa bác trai đi cải tạo cho dù bác chẳng có dính líu gì tới lính tráng. Làm chủ cái tiệm may áo dài ọp ẹp như thế mà cách mạng cũng bắt bà đi học chính sách cải tạo công thương nghiệp.... Theo lý luận của cách mạng thì trong miền Nam ai cũng có tội. Thậm chí mấy người theo cách mạng có con cháu làm công chức hay lính tráng cũng có tội thì còn ai khỏi? Bây giờ thằng bạn theo giặc học chung với nó hồi đó muốn ỷ thế cách mạng đặng cưỡng đoạt đứa con gái của bà nữa sao:

     - Má đã nói với nó: Thôi cháu đừng tìm con Nga nữa. Nó đã có gia đình. Hơn nữa, chồng của nó cũng là bạn hoạc cũ của cháu. Đúng ra đạo đức cách mạng dạy cháu không nên tìm nó nữa! 

     Cô giáo làm thinh. Người mẹ tiếp:

     - Nó bảo thằng Thống bây giờ te tưa trụi lũi còn gì nữa? Phó thường dân còn chưa được!

     Cô uất ức nổi sung lên:

     - Thằng khốn nạn! Đồ vô liêm sỉ! Nếu nó không nói gì, con còn coi nó là bạn. Má đừng lo cho con. Giả dụ Thống có chết trong tù, con có ế chồng đi nữa cũng không tới cái thứ đó!

     Nó nói động tới anh Thống là cô giáo không tha thứ cho nó được. Hai vợ chồng hồi học chung một lớp là kẻ thù của nhau, bởi vì cả hai cùng học giỏi, tranh nhau từng tấc đất! Hai kẻ thù thay phiên nhau giật giải xuất sắc khi trong lớp hoặc khi toàn trường. Hai anh chị gầm gừ nhau cho đến khi cô Nga lên đại học thì hết, vì không còn đối tượng để mà trả thù! Anh Thống tới tuổi động viên phải vào Hải Quân. Trước khi mang ba-lô lên đường, anh Thống thức trọn một đêm, uống ba ly café đen và hút hết hai gói thuốc Bastos xanh, chong đèn ngồi nắn nót viết. Sáng hôm sau, anh ngập ngừng tạt ngang trao bức thư tỏ tình đầu đời cho cô Nga, mà bình thường anh không có can đảm làm. Bức thư của kẻ thù ra đi để sầu để nhớ cho kẻ thù ở lại suốt thời gian bốn năm đại học.      

     Bác Tư không biểu lộ nhưng hãnh diện về con gái, vì trong số các anh chị, tính cô Nga giống bác nhất: thâm trầm nhưng cương quyết. Từ hồi rất trẻ, bác gái đã cương quyết tuyệt tình vì cái tội bay bướm của bác trai. Thật ra thì bác trai cũng không có tội tình gì trầm trọng cho lắm! Chỉ là văn nghệ văn gừng, nhưng chẳng may bị bật mí![4]. Ở cái tuổi chưa tới ba mươi, người phụ nữ nào không cần một vòng tay đàn ông ôm ấp và chở che, nhưng bác dứt khoát. Sau biến cố, bác trai làm việc ở Sài Gòn, ở luôn trên đó lâu lắm mới về thăm con. Với cái tiệm may áo dài nho nhỏ, một bàn tay bác gái lo cho các anh chị nên người, mà thân cận nhất là cô Nga. Và cô Nga, giáo sư dạy sử địa lớp Mười Hai, có người chồng sĩ quan sau cuộc đảo đời làm con trâu cày!  

     Làm trâu cày khi ở tù-trong ù ơ ví dầu thế nào cũng được, nhưng ở tù-ngoài thu hoạch không đủ thì lấy lúa đâu mà đóng thuế cho nhà nước xã hội chủ nghĩa! Có người nghĩ các bà tù-ngoài khổ hơn các ông tù-trong. Ở lâu quá thì các ông liều mạng không cần biết đến ngày mai. Còn các bà ở tù-ngoài một nách mấy đứa con phải chống chọi cùng một lúc nhiều mối hiểm nguy! Cho nên về ở tù-ngoài, quý quan kê vai chia sẻ gánh cái khổ đó cho vợ con. Ngày đầu mới ra quân quý quan chịu không thấu nên về sớm cho trâu dưỡng sức. Bỏ cái ách ra, con trâu người bị thương nhưng còn gắng gượng lo dọn dẹp vườn tược. Ngôi nhà này, cái sân này, vườn dừa này, những con mương ngăn luống dừa này... tất cả không thay đổi nhưng khác xưa. Anh nghe thật rõ ràng tiếng lá xạc xào từng cơn gió đi qua. Anh cảm giác từng cơn gió mát ve vuốt tâm hồn. Nhìn ra thửa đất dưới ánh nắng có sao, một khung trời cách biệt. Ở đó những con người cách mạng đang hồ hỡi tiến tới thiên đường xã hội chủ nghĩa theo sách vở vẽ ra!  

     Ông sĩ quan nằm tại gốc cây không biết bao lâu. Không nhìn thấy tương lai huy hoàng trước mặt mà mơ về quá khứ êm đềm sau lưng. Anh nhớ con đường ướt sương buổi sáng, nhớ cái gò mả đôi tại ngã ba lộ đất, nhớ rặng trâm bầu nhà bác Sáu Tứ thợ mộc, và nhớ bụi mắc cở ven đường mà một trăm lần như một anh rắn mắc phải đá một cái cho lá nó khép lại.... Đến khi nghe tiếng rửa chân của cô giáo từ cái cầu thấp ngoài ngỏ, ông chồng sĩ quan, một tay đang xoa lên cổ đứng dậy bước ra ngoài đón. Trời không còn nắng. Trong cái không khí ảm đạm buổi chiều nhá nhem chỉ còn đủ để nhìn rõ mặt người thân, cô giáo dáng dấp tiều tụy mệt mỏi. Anh Thống nắm tay vợ, an ủi:

     - Nga cực lắm hả?

     Cô giáo nhìn chồng, thở dài:

     - Nga chỉ khổ!

     Ông sĩ quan nhẹ nhàng:

     - Có chuyện gì vậy Nga?

     Cô Nga trấn an: 

     - Thống đừng lo! Không phải chuyện ở trường đâu!

     Ông sĩ quan cố né tránh dấu cái cổ đỏ đang xát dầu dừa, nhưng không qua được mắt cô giáo:

     - Thống đưa cái cổ cho Nga xem!

     Cái cổ con trâu người làm sao bằng của con-trâu-cổ cày chuyên nghiệp! Cái cổ như cái cổ cò được gắn trên cây xương đòn gánh, bây giờ không gánh trách nhiệm quá trừu tượng mà mang cái ách cho cụ thể, nổi đỏ và sưng phù lên. Cô Nga nghẹn lời rươm rướm nước mắt, gục đầu lên vai Thống.

     Một tay vỗ vỗ lên lưng Nga, anh Thống an ủi:

     - Hồi trong tù, Thống còn cực hơn nữa!

     Cô Nga im lặng nuốt những giọt lệ. Anh Thống tiếp:

     - Ruộng tù đang cày, phân người nổi lềnh bềnh. Chúng nó gọi là phân Bắc. 

     Nga lại im lặng. Tiếng cười của Thống méo mó:

- Ruồi nhặng bay đầy! Riết rồi mũi mình hết biết mùi luôn!

     Cô Nga buồn mửa như bị thai hành. Thống không thêm lời nào. Ánh mắt ông sĩ quan đanh lại. Chuyến hải hành thằng bạn nói hôm nọ hiện ra trước trước mắt. 

     Anh Thống cụng trán vợ thì thầm:

     - Nga à! Mình phải đi!

     Cô Nga vói tay bá cổ anh Thống chia sẻ và tìm sự an ủi. Hai vợ chồng ôm nhau, im nghe hai trái tim cùng nhịp đập.

 

Ngô Sỹ Hân

 



[1] Mò tôm: Hình thức xử tử phổ biến thời bấy giờ của Việt Minh. Nạn nhân bị cho vào bao bố thả xuống sông.

 

[2] Dế: Tiếng lóng chỉ đuôi thuốc lá trong tù. Những anh em nghèo không có tiếp tế lượm chừng mươi cái đuôi rồi “recycle” lại hút cho đỡ ghiền! Lúc đầu mắc cở vì sỉ diện, nhưng riết rồi xem như thường! Ngặt là dế trong tù không to như dế ở ngoài!!!     

[3] Thuốc giả: Lấy bất cứ lá gì phơi khô quấn hút như “hút thuốc”!

 

[4] Bật mí: Tiếng lóng nói lái nghĩa là lộ bí mật.