TÖÏ TRUYEÄN
ÑAËNG PHUØNG QUAÂN

 

                                                                                                                                                                    

                                                                

                                                                       

    Ngăn kéo thứ nhất                                            

       Tôi thường có thói quen buổi sáng vào ngồi uống                 

      cà phê ở một quán trung tâm thành phố trước khi đến             

      lớp dạy.Ngoài trời còn nhá nhem, những ô cửa                       

      kính mờ hơi sương, những ngọn đèn lục khuất ở các                

      góc tường vẫn cháy sáng, một vài khuôn mặt quen thuộc          

      trầm ngâm trước ly trà bốc khói.Trong sớm mai nỗi               

      nhọc nhằn của một ngày mới bắt đầu.Tôi vẫn thường              

      tự hỏi quanh ta những âm mưu thử thách nào sắp sửa             

      bắt đầu                                                                  

Barthes không quan niệm không có tác phẩm, nhưng ông nhận định tác phẩm hiện đại không thể khả hữu, khi nhà văn với văn tự của ông còn ở trong một mâu thuẫn không lối thoát :                            

 Trong bất kỳ hình thức văn chương nào, cũng có sự chọn lựa tổng   

   quát một thái độ, một thái độ đạo đức, chính vì những tương      

    quan giữa suy tưởng của nhà văn về xử thế xã hội đối với hình     

    thức và sự chọn lựa của mình, chọn lựa một luân lý về hình thức  

    chọn lựa không khí xã hội mà trong đó nhà văn quyết định xác    

    nhận bản chất ngôn ngữ của mình.Tóm lại nhà văn định vị trên    

    một thực tế hàm hồ : giao ngộ tương tác giữa nhà văn và xã hội;  

    từ cứu cánh tính xã hội này, đưa đẩy nhà văn tới những nguồn     

    lực cần thiết trong sự sáng tạo của ông, bằng một thứ chuyển       

    hoán bi đát.Chính vì không có tư tưởng nào không cần ngôn ngữ  

    mà Hình thức là phán quyết đầu tiên và sau cùng của trách        

    nhiệm văn chương, và chính vì xã hội không hòa giải mà ngôn      

    ngữ, tất yếu và thiết yếu bị chỉ huy, đã tạo dựng cho nhà văn một 

    thân phận xâu xé, xót xa.

                                 

                                                                                     

                                                                                      

  Trong văn chương chỉ có những nhân vật thực (thực sự)

  Trong triết học chỉ có những nhân vật phi thực (thực chất)

  Cuộc hành trình của nàng gần ba mươi năm, qua gần nửa vòng trái đất mới gặp lại người yêu (cũ).Cuộc tình tưởng chừng không bao giờ được thuật lại, ví như một câu thơ ngẫu hứng (dở dang) trên trang giấy trắng trơn

              chim sẻ về mùa này trên những cành hoang trong

 

bỗng nhiên chàng hiểu đó không là ảo tưởng nhưng tập hồ sơ lý lịch thứ nhất trong đời người.

 

    Ngăn kéo thứ hai

 

         Người đàn bà ấy đã nhắc nhở lại nơi chàng cả một thời tuổi  trẻ.Những cơn mưa trên phố xá Đà lạt.Chao ơi, lâu lắm rồi   chàng mới xuôi về mối tình đầu thưở cũ.Con đường dốc quanh   co lên đỉnh đồi dẫn đến ngôi nhà ở chênh vênh cạnh rừng thông   bạt ngàn đó.Nhớ.Lúc kéo cao cổ áo, đốt một điếu thuốc, ngừng  lại nghỉ một giây mệt mỏi rồi bước trên lối đi lát gạch, bâng  khuâng đứng bên cửa nghe tiếng nàng hát nho nhỏ (dường như chỉ để  nghe một mình) trong lúc làm bếp.Cô thiếu nữ mười lăm  ấy, với khuôn mặt trăng rằm (chàng thường chế nhạo như thế,   cộng với cái răng khểnh làm dáng) là một thế giới thứ nhất đã  mất của chàng.                                                                       

thành phố của nàng nhìn ra Thái bình dương, nơi nhà thơ lưu vong Czeslaw Milosz đã viết những viễn tưởng Widzenia nad Zatoka San Francisco --nàng có biết điều đó ?

thành phố của nàng mỗi sớm mai chuyến tàu điện chạy ngược từ lâm viên quốc gia về khu thị tứ, tiếng chuông bạt trong gió, nàng cũng đã ra khỏi nhà, đi ngang quảng trường ngăn con lộ chính của trục giao thông nam bắc với khuôn viên Đại học, con đường nhỏ và thảm cỏ được cắt tỉa thành hàng như đánh dấu lối đi vì ngày nào nàng cũng thức giấc đều đặn vào lúc năm giờ ngồi tĩnh tâm đợi ngoài trời sáng rõ (có những buổi sương mù giăng tỏa ngập không gian, nàng nhìn qua khung cửa sổ chờ ngọn đèn trên nóc cao ốc xa tắt để đánh dấu ngày mới), như một công chức hành chính làm việc đúng giờ, nàng qua khỏi quảng trường để đón chuyến xe sớm nhất tới Dale, chuyến xe với những khuôn mặt quen thuộc theo một lịch trình nhất định, có nhắm mắt nàng cũng tưởng tượng được mỗi người khách đó ngồi ở hàng ghế nào (như) thể một định mệnh ràng buộc (nàng tự cười thầm về ý nghĩ vơ vẩn) trong khi những âu lo mỗi ngày sắp đặt trong đầu như một con toán đố thuở học trò (gọi cho người cán sự mới nhận việc - đo nhiệt độ - làm công việc vệ sinh buổi sáng - hâm nóng thức ăn sửa soạn từ tối hôm trước - đã đến ngày gội đầu - trước khi tắm - trải nệm giường mới - thay tã - mặc áo mới - chải tóc sau khi lau khô cẩn thận để tránh nhiễm cảm - đặt ngồi ở ghế bành với gối dựa êm, chắc - kể từ lúc bà cụ ngã bệnh, căn bệnh của tuổi tám mươi cầm cự theo ngày tháng) nàng thốt lên nho nhỏ trong miệng như vừa chợt khám phá ra một điều mới lạ, như thể sự khó chịu ấm ách trong lồng ngực vừa được cởi bỏ nghe nh- nhõm (nàng vừa nhận ra cơn đau ngang thắt lưng bấy lâu là vì chiếc giường bệnh kê cao quá so với tầm vóc của nàng, mỗi khi nàng đỡ m- từ chỗ nằm sang phòng tắm),

lại một chuyện bận rộn chiếm khoảng trống trong trí mấy ngày (và  nàng cảm thấy hạnh phúc với điều đó)

những ngày tháng khi còn làm trợ giáo ở Min., nơi nàng tự đặt cho một cái tên là Xứ Tuyết, nghe như tên một tiểu thuyết Nhật bản, mùa hạ cũng nóng bốc lửa, công việc không ràng buộc như bây giờ nhưng sao nàng không cảm thấy chút tự do như giây phút ngồi trên một lộ trình hàng ngày nhất định lúc này.Nàng không thể kể lể cho

người nào.

thành phố của nàng, nơi chàng đã đặt chân đến vào tháng mười

mang theo câu thơ của Milosz

  Bylo nas wielu, z Jass i Koloszwaru, Wilna i Bukaresztu, Sajgonu   

  i Marakesz                                                                      

  Wstydliwie pamietajacych domowe zwyczaje

  lũ chúng ta đến từ Jassy và Koloshvar, Wilno và Bucharest, Saigon với

  Marrakesh nguợng ngùng nhớ lại những tập quán nơi quê nhà         

tâm sự thường xảy đến với những người di dân đến chốn này, một thành phố đang thất lạc trong trí nhớ -  bạn có biết mỗi con đường chỉ những con số (lục lạo trong tiềm thức để hình dung cuộc hẹn)/năm sinh, giờ bay và điện thoại dự liệu nếu khi tới/sự biến đến với nàng - hình dung một Đà lạt của riêng nàng và chàng lúc này (tôi vẫn tưởng tượng nàng đứng ở dưới chân dốc, khép tà áo tung lên trong gió, trông theo cho đến lúc xe chạy khuất cuối đường vòng), tôi vẫn tưởng mang đi được cả hình ảnh tuổi mới lớn của nàng (song thất bại) dẫu chiếm đoạt tất tận những giấc mơ khi nàng xa rời trường học (sống với nhau trọn kiếp) - dường như thuở ấy chiến tranh còn ở tận góc chân trời nào,

(chiến tranh, chia ly, đời sống chỉ là những khái niệm thật mơ hồ đối với nàng) -                                                                        

đó là câu chuyện ba mươi năm về trước đối với chàng, ở một thành phố khác khi chàng khởi cuộc hành trình này - theo đuổi một nhân vật của chàng

         người đàn bà ở một góc khác - không, tất cả chỉ là sự mơ hồ,

         bắt đầu cho cuộc sáng tạo, hay thật ra chỉ là cơn ái tình làm 

         xong, kéo tới, bao vây lấy cơn buồn ngủ lúc này rủ rê, vỗ về ngã

         mình xuống tấm nệm để thiếp đi, quên hết trong khi thân hình

         nhớp nhúa, ý nghĩ thì bồng bềnh trên một khoảnh khắc vừa đoạn

         lìa với khí hậu của căn phòng 3x4 thước chỉ chứa đủ một cái 

         giường sắt không treo mùng đặt song song với cái bàn xếp những

         tạp chí nhiều hình ảnh (những cái gáy nhiều màu sắc, dễ nhận 

         ra) khung ảnh chữ nhật mặt nhựa trong suốt lồng chân dung một

         người đàn bà, nét mặt mờ ảo dưới ánh sáng, đang cười, cái phin

         cà phê để trên chiếc ly bằng sành nung                           

người đàn bà giờ này đã thật trưởng thành (thật sự ở vào lứa tuổi bốn mươi đã tự coi là già lắm rồi, không còn gì để mơ tưởng - như nàng thường nói) - bỗng dưng thời khắc xáo trộn vì chàng xuất hiện

         tưởng anh không còn sau cuộc biến động/ý nghĩ của chàng cũng

         vậy/như một lần tự sát/có thể nào mình gặp lại nhau - ngày xưa

         mình đã vô tình vì nghĩ sự gần gũi chẳng thể có gì chia      

         cách/bây giờ em sợ vô tình/thành phố như một căn phòng ngủ

         khi hai thân xác kề bên nhau                                        

giữa những thân xác khác, biến dời và nghiêng lệch tùy theo ý nghĩa, thấm nhuần xung quanh và vượt qua ý nghĩa thân xác, luôn luôn cầu khẩn và thu phục nội dung, tự biến đóng kín châu thân, trong nội tại cũng như qua các tri thức đắc thủ, những kinh nghiệm từng trải, những cảm tình nuôi dưỡng, đồng thời cũng khám phá cái trống vắng,

sự xóa bỏ mọi nội dung, sự lược giảm hiện diện vào tha tính       

    

    Căn phòng đường Sloat

 

     Ngay từ buổi đầu tiên khi gặp lại nhau, khí hậu tháng mười nơi thành phố nàng ở đã chớm lạnh, cái lạnh không ẩm thấp làm se da thịt, lúc bước chân vào căn phòng, chàng đỡ chiếc áo khoác ngoài của nàng vắt lên thành ghế, họ đã ôm chầm lấy nhau - nàng dụi mặt vào ngực chàng, nghe như thấm những giọt nước mắt tự nhiên ứa ra (và nàng nức nở không nguôi) - rồi một khoảnh khắc nào đó, họ đã nằm bên nhau, thân thể của nàng (người đàn bà chưa qua lần sinh đẻ nào) không một dấu ngấn, đầu vú tròn, đỏ nhỏ xinh xắn, làn da mịn dưới những cảm giác của bàn tay chàng (và chàng nhận ra một nốt ruồi son ở phía bụng dưới của nàng), chàng thầm thì nói điều đó với nàng

- hai người cùng thốt lên cười trong lúc thân xác đã kề bên nhau - họ cùng chia xẻ một ý nghĩ trong ba mươi năm qua đi tìm kiếm thấy lại một điều gì đó riêng tư của chính mình trong xát-na này (ngày xưa, tại sao? em nhát lắm, có thể vì khung cảnh thời trung cổ Đà lạt, có thể để chờ đợi một ngày thực sự em sẽ là của anh, cái ngày ấy đã trở

thành ngày dài nhất suốt cuộc hành trình đời người, nghe như tiếng than vãn của nàng/của chàng), cái riêng tư ấy đến thật muộn trên thành phố lạ mặt.

    Mười mấy năm sau khi chàng đặt chân đến xứ sở này, chuyến xe đón người tị nạn ở phi trường đã chạy ngang thành phố về hướng thung lũng, cho đến ngày hẹn đến thăm nàng, chàng mới có dịp trở lại, kể cho nàng nghe lúc lái xe trên con lộ mười chín, chàng đã lạc đường đến tận vùng đồi sát bờ biển (đứng ở trên mỏm đất cao nhìn ra trùng dương xa, chân trời mờ mịt trong sương chiều, hình dung nàng cũng nhạt nhòa) bây giờ hiển hiện trong từng cảm giác, chàng thú thực vẫn như ảo tưởng, "ôm chặt em đi" - nàng thầm thì khuyến khích, từ lâu rồi...một nơi để trở về, căn phòng, nơi mà tôi (sẽ) phải đến bởi vì không thể là nơi nào khác - thế giới đã dành cho chúng ta một chỗ này, chàng mơ hồ nhớ như đã đọc (viết) ở đâu đó, một chỗ ngồi với nhau ở thềm cát ngoài bãi biển, ngó mông về phía những đợt sóng trùng trùng lớp lớp dội vào bờ thấy một người đàn ông dáng vẻ Á đông đang thổi chiếc kèn đồng, âm thanh dạt lại theo chiều gió, nàng tưởng tượng tiếng nhạc đó như nói với mình                                                           

                                                                                     

     Ngăn kéo thứ ba                                              

                                                                        

       Khởi đầu là tình yêu.Giống như Cựu Ước viết : Berechit/bara elohim et hachchamáim veet haárets.Derrida cũng khởi từ phần thứ ba trong Rechtsphilosophie của Hegel để viết : Tôi bắt đầu với tình yêu.Con đường gai góc để nói đến Hegel, đến Genet, đến Freud.Có phải tất cả chỉ là phỉnh gạt ? Hãy tin vào sự khởi đầu, vì tình yêu là một khoảnh khắc của Sittlichkeit.

   Hegel ghi nhận trong thiên mở đầu Gia đình :

       Liebe heisst uberhaupt das Bewusstseyn meiner Einheit mit  

       einem Anderen, so dass ich fur mich nicht isolirt bin, sondern

       mein Selbstbewusstseyn nur als Aufgebung meines Fursichseyns

       gewinne, und durch das mich Wissen, als der Einheit meiner 

       mit dem Anderen, und des Anderen mit mir                    

       tình yêu nói chung mang ý nghĩa ý thức tính thống nhất của ta

       với tha nhân, đến độ ta không còn bị cô lập trong ta nữa, nhưng

       ta có thể thắng cái tự thức như thể từ bỏ cái ta quy nội, và kể

       từ cái tự kiến này mà thống nhất được ta với tha nhân cũng như

       tha nhân với ta                                                           

tình yêu lại là Empfindung - die Liebe ist aber Empfindung - sự tìm kiếm cái thất lạc trong nhau, khi phút ban đầu của tình yêu là không muốn sống một mình/dass ich keine selbststandige Person fur mich seyn will/ta thấy ta trong tha nhân/dass ich mich in einer anderen Person gewinne

tình yêu là điều mâu thuẫn không ngờ - die Liebe ist daher der ungeheuerste Widerspruch                                                      

Marx hẳn không thể hiểu quá trình biện chứng này                     

       mâu thuẫn biện chứng của tình yêu với Hegel vượt lên khỏi nhận

       thức lý luận/den der Verstand nicht losen kann - những mặt đối

       lập (chung/riêng, khách/chủ, tổng thể/cá thể...); mâu thuẫn gắn  

       bó với Aufhebung/Vereinigung, những vận động dàn trải khắp tư

       tưởng Hegel khi ông viết tình yêu không có tha thể vì bạn hãy   

       yêu tha nhân như chính bạn - als einen der du ist, vì yêu chính  

       mình là một tiếng không có ý nghĩa (ein Wort ohne Sinn)

tôi không đưa bạn vào con đường hữu thần luận của Hegel (bạn có thể theo chân Derrida đọc lại Freud khi phân tích  sinh thực khí trong cổ thoại hy lạp, kể rằng mỗi khi nhìn thần Medusa là biến thành tượng đá : khủng cụ của Medusa là niềm khủng cụ bị thiến hoạn gắn liền với cái nhìn, bởi vì đứng trước cái đầu bị cắt và miệng mở rộng chính là đứng trước âm hộ của người m-; trong nghệ phẩm biểu hiện tóc trên đầu Medusa bằng hình tượng những con rắn bắt nguồn từ mặc cảm thiến hoạn vì tuy chúng có vẻ dọa nạt nhưng lại làm giảm vẻ khủng khiếp, vì chúng thay thế dương vật mà nguyên ủy của khủng khiếp là do thiếu vắng dương vật (dessen Fehlen die Ursache des Grauens ist) - nhìn đầu Medusa làm bạn sợ cóng đến độ biến thành đá, cóng biểu hiện cương cứng có nghĩa là vẫn còn dương

vật)

Hegel nói đến phân hóa thành hai là cội nguồn của nhu cầu triết học (Entzweiung ist der Quell des Bedurfnisses der Philosophie), mối quan tâm của lý trí nhằm chế giảm sự phân hóa này.Đó chẳng qua là một cách nói của quyền năng thống nhất (Macht der Vereinigung), cho nên cần đến triết học chưa hẳn là triết học.Triết học chỉ bắt đầu

bằng chính nó.Từ triết học từ tự nhiên đến triết học về tinh thần diễn ra cái vòng biện chứng, khởi từ nhu cầu đến cảm thụ cái khuyết, cái khuyết của cá thể trong giống, cái chia cách của giống trong cá thể, như vận động hàn gắn vết cắt, làm đầy chỗ khuyết như hành động giao hợp của chủng loại (Begattung), làm tình giữa giống cái với

giống đực (Geschlechtsverhaltnis).

     tình yêu là mâu thuẫn nằm ngay trong phân hóa giữa hai giống và chỉ trong giao hợp mới lấy đi sự phân hóa này.Cái cơ động của Aufhebung là quan hệ giữa giao cấu và khu biệt đực cái, nhưng giống đực và cái không đối lập như hai từ mà khu biệt của bất phân và phân hoá, như mồng đóc giống với dương vật nhưng thụ  động, cái hình thành tiểu âm thần giống như túi dịch hoàn và đường rãnh ngọc hành làm thành âm đạo nơi đàn bà - giao hoan là thụ cảm (das Empfangen) của đàn bà và cử hoạt (das Tatige) của đàn ông, một bên nhận và một bên mất đi

Cái vòng vo chạy đuổi theo nhau như cút bắt trong cuộc làm tình nơi đàn ông/đàn bà thăng hoá thành Aufhebung trong triết lý Hegel âm u đến thế

nhà thơ như Francis Ponge vỡ lẽ tại sao khoái đọc ngụ ngôn La Fontaine hơn Schopenhauer hay Hegel vì bớt mệt, lại nhiều thú vị , sạch sẽ hơn và ít lợm (moins fatigant, plus plaisant; plus propre, moins degoutant)

Derrida khi đi tìm hiểu điều đó đã tự hỏi :

    Hegel (le philosophe) n'est pas très propre, et il faut, après l'avoir lu, se laver, on dirait même s'en laver les mains...

    Pourquoi les philosophes seraient-ils, sans compter toutes leurs  autres insuffisances, sales?

    Hegel (triết gia) không sạch lắm đến nỗi sau khi đọc ông, ta phải đi tắm nếu không  muốn nói phải rửa tay nữa

    Tại sao các triết gia lại bẩn, chưa kể tới những khiếm khuyết khác?

trong muôn vàn lý do, cái tội nhất của mấy triết gia là cứ "huyên thuyên bất tận"/"volumenplusieurstomineux", không biết cắt ngắn đi và ký tên vì ông nào cũng chối bỏ đặc ngữ của cái tên mình mà chỉ nói những khái niệm và khái quát chẳng sạch sẽ/thích đáng/impropres

 

     Hành trạng của viết

 

      Tất cả là quyển sách - cuộc phiêu lưu của chữ viết bắt đầu.Nhưng tại sao lại hành trạng ? Có gì liên quan giữa cuộc đời (bio) và chữ  viết (graphie) ? Quyển sách được khai sinh, những chữ được viết ra, dường như tất cả từ hư vô đổ xô dồn lại; không phải vậy, chỉ có sự phân cách mỏng manh giữa hai biên giới : bên trong và bên  ngoài cuộc đời

  Quyển sách triết học đầu tiên chàng đọc là bản dịch của H.Albert từ tác phẩm Zur Genealogie der Moral sang tiếng Pháp, Mercure de France xuất bản mua lại từ quầy sách cũ, chủ nhân là một bà già (mù chữ ? chàng đoán mò thế vì mặt hàng của bà đầy sách báo ngoại ngữ tạp nhạp, kẹo và thuốc lá) đặt xế cửa quán cà phê Mai Hương (?) ở

Saigon thuở ấy - nhiều năm sau này quầy sách cũ và bà cụ đã biến đi trong những biến động nhiễu nhương.Quyển sách cũng thất lạc, giờ đây chàng chỉ còn giữ nguyên bản copyright 1930 của Alfred Kroner Verlag ở Leipzig.

    Nietzsche kể lể những kẻ thù của Schopenhauer như Hegel, đàn bà, thú nhục dục và toàn bộ ý chí để tồn tại, ngoan cố nên trên hết thẩy là tình dục mà Schopenhauer coi như kẻ thù cá nhân (als personlichen Feind):

     Jedes Tier, somit auch la bête philosophe, strebt instinktiv nach  einem Optimum von gunstigen Bedingungen, unter denen es seine  Kraft ganz herauslassen kann und sein Maximum im Machtgefuhl  erreicht; jedes Tier perhorresziert ebenso instinktiv und mit einer  Feinheit der Witterung, die "hoher ist als alle Vernunft", alle Art  

Storenfriede und Hindernisse, die sich ihm uber diesen Weg zum  Optimum legen oder legen konnten (es ist nicht sein Weg zum  "Gluck", von dem ich rede, sondern sein Weg zur Macht, zur Tat, zum machtigsten Tun, und in den meisten Fallen tatsachlich  sein Weg zum Ungluck).Dergestalt perhorresziert der Philosoph die Ehe samt dem, was zu ihr uberreden mochte,- die Ehe als Hindernis und Verhangnis auf seinem Wege zum Optimum.Welcher grosse   

Philosoph war bisher verheiratet? Heraklit, Plato, Descartes, Spinoza, Leibniz, Kant, Schopenhauer - sie waren es nicht; mehr noch, man kann sie nicht einmal denken als verheiratet.

     Mọi loài thú, kể cả loài thú triết gia, phấn đấu theo bản năng để  đạt tới cái tối hảo từ những điều kiện thuận lợi, nhờ đó nó có thể khai triển sức lực và hoàn thành cảm năng quyền lực tối đa; cũng do bản năng và nhận thức tinh tế cái gì "ở trên hết thảy lý trí", mọi loại xâm nhập hay chướng ngại có thể cản đường tới cái tối hảo  (tôi không nói con đường dẫn đến "hạnh phúc", mà là con đường tới quyền lực, hành động, hoạt động uy quyền nhất, và trong mọi trường hợp ý nghĩa nhất thực sự là con đường dẫn đến bất hạnh).Thế nên triết gia kinh hãi hôn nhân, cùng với những gì có thể thuyết  phục được, - hôn nhân là chướng ngại và tai họa đối với con đường đến chỗ tối hảo.Có ai trong những triết gia lớn lấy vợ đâu ? Như  Heraklit, Plato, Descartes, Spinoza, Leibniz, Kant, Schopenhauer  đều không lấy vợ; hơn nữa không ai có thể tưởng tượng họ lấy vợ

cũng Nietzsche cho Sokrates là trường hợp ngoại lệ, nằm trong nguyên lý hài kịch của ông

thế những triết gia như Khổng Khưu, Thích Ca, Aristoteles, Hegel, Husserl, Heidegger...ở trong hàng ngũ nào ?

còn những Lão Đam, Jesus ở trong nguyên lý nào ?

Nietzsche viết tinh thần tự do chỉ có khi nói không với mọi sự nô dịch rồi đi vào sa mạc (nein sagten zu aller Unfreiheit und in irgend eine  Wuste gingen)

há đó không phải là hình ảnh Lão Đam

triết gia không từ khước tồn tại mà xác quyết tồn tại của chính mình (ở một chỗ nào đó, chàng viết (đọc) : chấp nhận trần gian, tọa thị  thẳng thắn trên mặt trái đất, con người là sự nghiệp của mình ở đời

pereat mundus, fiat philosophia, fiat philosophus, fiam

Maine de Biran trong Nhật ký ca ngợi triết lý là suy tưởng trong quay cuồng thế giới cũng như trong cô tịch thư phòng đạt tới đỉnh cao vòi vọi, trong khi những tinh thần nhỏ nhoi của thế nhân chỉ nghĩ trong hoàn cảnh và thời khắc nhất định khi đầu óc và bao tử ổn định - đến chín phần mười cuộc đời chẳng dành cho tư tưởng

Sau bao năm tháng trôi qua, tôi vẫn đi trên một lối mòn và không bao giờ quay trở lại

Ecce enim breves anni transeunt, et semitam per quam non revertar,  ambulo

Những căn phòng trọ, những thành phố không tọa độ, những hình ảnh người đàn bà trong đời, cuộc hành trình vô định như thể viết, mãi không ngừng nghỉ (nàng hỏi, chàng hay tôi phải ký tên)

 

đặng phùng quân