Am cu ly
xe
Thanh
Tịnh
Mới nghe qua tên am, tôi
đã tưởng họ bông đùa.
Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với giọng
nghiêm chỉnh lắm.
Cái
am ấy nhỏ bằng vôi đựng trên bờ sông Bồ thuộc về
làng Thanh Trúc. Trong
am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ
tiện. Trước cửa am
có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng.
Cách am năm bước có cái mồ
đắp lên cao. Ngôi mả của người cu-ly xe.
Chuyện am này ở hai
vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Họ thường kể
cho người lạ
nghe với một giọng chắc chắn đáng tin. Ðược dịp kể nhiều
nhất là bà bán
quán gần am ấy. Và khách qua lại muốn được nghe
chuyện chỉ việc uống
một bát nước chè hay ăn vài đĩa xôi đậu.
Bà quán kể lâu quá thành có
duyên và lắm đoạn nghe xuôi như đọc thuộc
lòng.
Từ ga Văn Xá đến
bến đò làng Thanh kể được trên hai cây số.
Bên kia sông là huyện Quảng
Ðiền. Bến đò ấy ở vào một chỗ hoang vắng vì kế
tiếp con sông là cái cồn
mồ. ở đó, qua huyện Quảng Ðiền gần hơn quay trở về
làng Thanh. Dẫn
khách đến ga là nhờ con đường chạy dài trong lối
xóm, qua vài cái cầu
ngắn bằng gạch và ba bốn khoảng phơi mình giữa đồng cỏ
cháy. Con đường
ấy được nhiều người đi nhất.
Ga Văn Xá làm lễ lạc thành xong thì
sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến
đón khách. Ðó là một
cái xe thảm khổ nhất. Ruột hai bán độn rơm và trần
xe đã thủng nhiều
chỗ.
Khổ hơn nữa là người kéo xe mù lại già, đầu
tóc bạc phơ,
người gầy gò và trán hói. Theo đúng
đường và biết tránh người đi là nhờ
đứa cháu nội lên mười chạy dìu phía trước.
Rồi ngày bốn buổi,
hai ông cháu lên ga Văn Xá đón
khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất
vả nhưng có kẻ thương tình nên cũng đủ sống.
Lệ thường cứ mỗi vòng được năm xu. Hai ông cháu
ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ
tiêu dùng, cơm cháo.
Từ
ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê ai
cũng thèm đi. Họ cốt đi đẻ mua vui
thôi. Vì họ thấy thứ xe lạ và chạy quá nhanh
nên họ thích lắm. Thích
nhất là được đứng trên tàu gọi tên mấy người
quen đang đi trên đường
cái quan.Lắm khi họ từ ga này để đến một ga nào,
gần đó. Rồi từ ga ấy
họ lại mua vé trở về ga làng.Ngày ấy họ chưa kể
đến sự tiện lợi đi xe.
Họ chỉ biết đến cái thú thôi. Ga Văn Xá nhờ
thế ngày nào cũng tấp nập
người ra kẻ vào. Và hai ông cháu người
kéo xe kiếm được miếng ăn rất
dễ. Người đi xe lửa ra khỏi ga họ muốn lên xe tay ngay. Họ
đã quen với
sự nhanh chóng. Ði bộ đối với họ lúc ấylà một
chuyện phiền. Nhưng được
người kéo xe khoẻ mạnh thì chẳng nói gì.
Ðằng này lại khác. Bước chân
lên xe người mù già, thì người khổ chưa hẳn
là người phải kéo xe mà
thật ra là người được ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu
cái tội trông
một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui , theo
bước chân của
một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại
không muốn đi xe.
Nhưng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, người
kéo xe mù lại càng túng thiếu.
Rồi sai chỉ những người ốm hay già yếu lắm- thỉnh thoảng
có vài người say rượu- mới bước lên xe của hai
ông cháu.
Lắm
người không đi, chỉ gửi vài bao hành lý họ
cũng trả tiền hẳn hoi. Nhưng
hạng người này hiếm lắm. Ðợi năm sáu chuyến
tàu mới gặp được một người.
Tối
đến, hai ông cháu thường ngủ trong một cái mui
thuyền đặt khum khum
trên bờ sông. Sáng mai ba giờ đã phải dậy.
Vì phải đợi khách bên huyện
Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ.
Tiền bạc làm ra được đều
do người cháu giữ. Và người ông cũng không
mấy khi hỏi đến. Trừ ra lúc
muốn mua một vài cút rượu trắng hay làm ăn được,
nhớ lại những ngày kỵ
giỗ của gia hương.
Ngoài ra, người cháu tuy nhỏ tuổi nhưng sớm
khôn, đã lo liệu cho cả. Vì cái quán
ở cách đó nửa cây số đã chu cấp
cho hai ông cháu đủ các thứ cần, lẽ tự nhiên
là phải bỏ tiền ra mua.
Mùa
đông năm Ngọ, lạnh và mưa luôn ngày
luôn đêm.Ðướng từ ga về bến đò đã
nhiều nơi bị hư hỏng. Lắm cái cống đất nhỏ bị nước lụt
trôi đi. Hai ông
cháu phải bỏ công chữa lại. Có thế xe mới đi qua
được. Và con đường
tuycủa chung, nhưng chỉ riêng hai ông cháu để
ý và lo ngại hơn cả. Xe
độ ấy ế vô cùng. Và gặp cái xe trần thủng,
nước tát vào như giội, khác
cũng thấy chán không buồn đi. Và đêm
nào lên ga đợi chuyến tàu suốt
chín giờ, hai ông cháy cũng dẫn xe về không.
Chất chồng vào cái
hại kể trên, chuyến đò làng Thanh không qua
lại nữa. Vì hai làng Thanh
Lương và Thanh Trúc đang kiện nhau để được độc quyền về
nghề chở khách.
Dân quanh vùng phải đi ngược lên khá xa mới
qua bến đò làng Triệu. Phía
ấy, cũng có đường đi lên ga nhưng hẹp lắm. Hai ông
cháu đành đưa người
đi lại quanh vùng Thanh Trúc và chờ nhà
nước xử xong,để chở thêm khách
bên huyện Quảng Ðiền.
Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe
suốt lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy, vào giữa đêm. Nghe
tàu đến, hai ông
cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau, con
tàu đã bắt đầu sục sịch
chạy, người kéo xe vẫn chưa nhận thấy có tiếng bước
chân nào khỏi ga.
Ông hỏi cháu nhưng thằng bé đã lẩn đi ngả
nào, Ông chắc nó đang đứng
đón khách ở sân ga nên định bụng chờ. Mấy
phút sau, đứa bé trở về, ông
già mù cảm thấy hình như có một người bước
lên xe. Ðứa bé nói với giọng
run run:
- Ông ơi, có người lên đó. Ông chạy đi.
Thế rồi
hai ông cháu dìu nhau chạy về phía
sông Bồ, qua những quãng đường lầy
lội và dưới dòng mưa đêm lạnh giá. Trong
những cánh đồng ngập nước,
tiếng ễnh ương đua nhau kêu não nùng như một bản
nhạc mùa đông, nghe
buồn thấm tuỷ. Hai ông cháu dưới mấy cái mo cau
và tàu lá chuối kết lại
thay tơi cắm đầu chạy trên quãng đường ướt át.
Trời tối đen như mực, nhưng may đứa cháu quen đường và
nhờ ánh bùn chiếu lên, nên bánh xe
cũng khỏi vấp ngã.
Ðến
bên đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya.
Gió ngoài thổi vào lạnh như
cát thịt. Ðứa cháy sắp dắt ông vào mui
thuyền thì như nghi ngại điều
gì, người kéo xe mù đã cất tiếng hỏi:
- Tiền xe mô đưa cho ông?
Ðó
là một câu hỏi bất ngờ vì mấy lần trước có
bao giờ ông hỏi đến đâu. Hay
cũng hỏi cho biết số, chứ chưa lúc nào ông định giữ
lấy. Ðứa cháu run
lẩy bẩy, lúng túng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ
nghĩ thoáng qua người kéo
xe mù đã hiểu ra lẽ thật. Có gì đâu,
không thấy khách và muốn ông nó
vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đã
nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó
chạy.
Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao
khổ trong nghề,
ông nó phân biệt rất tinh tường người ngồi và
vật đặt khác nhau nhiều
lắm.Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù
quáng, vì đói rách nên lòng
vẫn hy
vọng những chuyện không bao giờ có được.Và biết ra
thì thêm khổ. Thấy
cháu khóc, ông cũng nức nở theo.
Rồi giữa đêm lạnh, phần già yếu, phần đau buồn, phần
đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất.
Ðứa
bé sợ thất thanh la hét nghe đứt ruột. Nhưng gió
của trời thét mạnh hơn
và tiếng nó đành chịu rã rời bay lạc giữa
đêm mưa tầm tã. Bên kia sông,
huyện Quảng Ðiền xa quá. CHỉ còn vài ngọn
đèn dầu chập chờn trong xóm
quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ
lâu, không đem được lòng từ
thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ hoj.
Sáng
mai đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ
sông vắng một đứa
trẻ thơ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người
già nua đã chết
cứng đờ.
Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều
dồn nhau lại mua cái hòm mới và chôn cất
người kéo xe già tử tế.
Về
sau đêm nào cũng như đêm nào, vào
khoảng mười một giờ khuya, sau chuyến
tàu suốt ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng
đó đều thấy một cái
bóng xe tay loang loáng chạy về phía làng
Thanh Trúc. Người làm giữa
ruộng dưới đêm trăng, các em mục đồng và cả sư cụ
chùa Linh Hải đều
nhận thấy nhiều lần. Và giữa đêm mưa lạnh ông từ
làng Thanh Trúc còn
nghe thấy cả tiếng nhạc xe trước cổng đình nữa...
Người ta bàn
tán và nói rất nhiều. Lúc ấy, làng
Thanh Trúc được kiện nên cho thuyền
đưa khách qua lại như cũ. Gặp lúc vui dân
làng liền quyên tiền để xây
cái am cho người kéo xe "linh hiền".
Dân huyện Quảng cũng sốt sắng góp tiền rất nhiều. Con
thuyền xưa đã nối lại hai bờ. Lòng từ thiện đã qua
sông.
|
|
|
|