Ánh Lửa Hồng
Tobias
Wolff
Mẹ tôi đã
thề không bao giờ đến ở trong ký túc xá nữa,
nhưng hoàn cảnh không cho
phép mẹ giữ trọn lời thề của mình. Do đó buộc
lòng mẹ quyết định đổi
đến thành phố khác. Dù sao mẹ con tôi cũng
cần một nơi tạm trú. Hóa ra
ký túc xá này còn tệ hơn nơi
chúng tôi đã ở trước kia. Ở đây thiếu sự
thân ái, buồn tẻ như đưa đám, và nặng
mùi ẩm mốc khó ngửi. Nói chung,
không khí nặng nề u ám dễ gây cho người ta sự
thối chí. Ngay nền nhà
dưới chân mẹ con tôi là người thủy thủ tàu
buôn đã về hưu có chứng ho
muốn vỡ phổi. Ông già là người thân thiện
luôn chào hỏi khen ngợi mẹ
tôi khi chúng tôi đi ngang qua căn phòng tăm
tối mà ông đang ngồi hút
thuốc sát mé giường. Lúc ban ngày tôi
thương hại ông, nhưng đêm về khi
nằm trăn trở lo lắng cho số phận đen đủi bấp bênh của mình
trong những
ngày sắp đến, mẹ con tôi nghe sự im lặng dâng cao
bao trùm niềm thống
khổ, chúng tôi ghét ông thậm tệ. Nhất
là tôi.
Mẹ
tôi tự an ủi đây chỉ là thời gian tạm bợ mà
thôi, không bao lâu nữa
chúng tôi tuyệt đối sẽ thoát khỏi cảnh này.
Ðể chứng tỏ cho tôi, và có
lẽ cũng cho riêng bản thân mẹ, thiện chí của
mình, mỗi ngày chủ nhật
vào giờ ăn sáng, mẹ miệt mài trên từng trang
báo, khoanh tròn các ô
quảng cáo cho thuê nhà. Rồi ghi xuống hàng
chữ 'đúng nhu cầu.' Tôi
khoái cung cách đầy tự tin và sốt sắng của mẹ.
Ðiệu bộ ấy cho tôi có
cảm tưởng nhu cầu của mình ít ra có chút
ý nghĩa với cuộc đời chung
quanh, và bản thân mình cũng là phần tử
đáng kể trong xã hội. Khuôn mặt
mẹ đăm chiêu như đang tính toán. Mẹ so sánh
giá cả các căn nhà, và loại
ra những căn đắt giá hoặc rẻ nhất. Khi tìm được năm hoặc
sáu căn vừa ý,
mẹ gọi hỏi nếu người ta còn mở cửa cho xem. Có thể
nói, chúng tôi dành
cả ngày đi xem hết căn này đến căn khác.
Thật ra chúng tôi chưa
mướn được căn nào cả. Chủ nhà đòi tiền
tháng đầu và tháng cuối, cộng
thêm tiền đặt cọc để họ lau chùi sang sửa. Tôi biết
phải chờ thêm một
thời gian nữa mẹ tôi mới có đủ khả năng. Thế là cứ
đến chủ nhật, mẹ tôi
lại tiếp diễn, lật báo, khoanh tròn, ghi chú, gọi
diện thoại, đi xem
nhà, và tôi bị lôi kéo theo. Mẹ con
tôi cứ đi xem và chẳng quyết định
được gì, tuồng như đi tham khảo thị trường. Ở vị trí của
người đi mua
sắm đôi khi rất thú vị. Tôi hạnh phúc trong
vai trò của người biết mình
đang cần gì, muốn gì và có thể mua mang về.
Mặc dù chỉ đi ngắm nhìn,
nhưng tôi thoải mái vui vẻ, vì có gan ngắm
nhìn rờ mó đã đời mà không
cần phải mua.
Mẹ tôi càng không phải là người khách
hàng thích
tính toán thiệt hơn, đi thẳng đến bảng giá, lắc
đầu hoặc than phiền giá
cả với người đi mua chung quanh. Mẹ tôi không có
hứng thú về giá cả.
Nói cho cùng, mẹ đâu có tiền để quyết định
sự đắt rẻ. Mẹ thích đi phố,
đóng vai người mua vì mẹ thấy thoải mái tự
nhiên và muốn tìm hiểu về
sản phẩm. Nhân viên bán hàng tiếp đãi
mẹ một cách cực kỳ kiên nhẫn. Tỷ
như, góp ý khi mẹ con tôi xem xét bộ vali
bằng da, dẫn giải về chiếc
tivi màn ảnh rộng hoặc chọn hộ tấm thảm Ðông Phương.
Ði xem thảm không
phải là điều nhẹ nhàng dễ chịu vì người bán
hàng làm việc vô cùng cực
nhọc. Họ phải ra sức kéo lê lết từng tấm thảm nặng nề vắt
cao nghều
nghệu cho khách xem. Nhìn họ đổ mồ hôi, thở
hào hển, xiểng niểng bước
chân dưới sức nặng của tấm thảm, tôi tưởng chừng
khuôn mặt của họ muốn
xơ ra như những sợi bố bện trên tấm thảm vô hồn kia.
Khách hàng đôi lúc
phải trơ trẽn làm mặt dầy, như mẹ con tôi chẳng hạn. Biết
chắc một
điều, mình chỉ đi xem đã đời, mà chẳng bao giờ mua.
Khi có thời
trang mới về, mẹ tôi thử hết bộ áo này đến chiếc
váy kia để tôi nhìn
ngắm. Xưa kia mẹ tôi từng một thời làm người mẫu, cho
nên mẹ biết cách
đi đứng nhún nhảy, làm dáng trước tấm gương, biết
bước tự nhiên, dừng
lại bất chợt, nghiêng đôi vai, lắc nhẹ một bên
hông, hoặc liếc ngang
liếc dọc ra chiều có ai gọi tên mình. Khi mẹ
nhìn tôi, tôi gật gù với
nụ cười, cái nhún vai, hoặc khe khẽ lắc đầu. Tôi
biết mẹ đẹp hoàn toàn
trên mọi phương diện, nhưng trong vai trò một vị
giám khảo tôi bắt buộc
phải có chút khắt khe kỳ thị.
Khi chúng tôi đi xem nhà, mẹ
thường mặc bồ đồ đầm màu xám. Phần mình, tôi
mặc bộ đồ tây khá bảnh
baọ. Chiếc áo len thêu hàng chữ "Vòng Tay
Bác Ái" trước ngực, cổ hình
chữ V, và thắt thêm chiếc nơ thật trịnh trọng. Mấy
ngày qua chúng tôi
xem các căn nhà trong khu đại học. Ba căn đầu tiên
khá thích hợp cho mẹ
con tôi, nhưng đến căn thứ tư thì thật tồi tệ. Người
đàn bà cuối cùng
sống trong căn nhà ấy bày bừa hoang tàn chẳng
khác nào thú dại nơi hang
động hoang sơ. Chủ nhà đã bỏ công dọn dẹp, nhưng
chẳng vớt vát gì. Căn
nhà xông lên mùi thịt thối rữa, dù cửa
sổ đã mở toang và gió lồng lộng.
Mọi nơi mọi phía đều nhớp nhúa. Chủ nhà tiết lộ
rằng người đàn bà ấy bị
khủng hoảng tinh thần sau cuộc hôn nhân đổ vỡ. Hắn đề nghị
sơn lại căn
nhà và lót thảm mới, nhưng lộ vẻ nản chí
chẳng sốt sắng, đang thao thao
bất tuyệt đột nhiên im bặt khi trông thấy vẻ thờ ơ nơi mẹ
con tôi. Hắn
tự hiểu cá không cắn câu, nên chẳng buồn để
lại danh thiếp của mình.
Còn vài căn nhà nữa nhưng mẹ tôi chừng
đã mệt mỏi. Mẹ hỏi tôi muốn ra
bến tàu hóng gió, đi về, hoặc dạo phố. Mẹ cố gắng
tạo vẻ tự nhiên,
nhưng tôi biết mẹ đang bực dọc. Tôi thật sự chưa muốn về
nên gợi ý muốn
tham quan khu đại học. Mẹ liếc ra đường.
- Ðằng nào mình đã đến đây, phải đi cho
biết chứ !
Mẹ
con tôi đi dọc hàng phong bên đường. Lá rụng
bị gió cuốn thổi xoáy vào
chân chúng tôi. Mẹ vòng tay ôm lấy
người, cúi xuống đất.
- Phải sống có ý chí và niềm tin nghe con.
Không vì bất kỳ điều tại bị nào cả.
Lời mẹ nói làm tôi khó chịu, nhưng tôi
biết mình chẳng làm điều gì sai nên
tôi yên lặng, không trả lời trả vốn. Mẹ bảo:
- Không cần biết chuyện gì xảy ra, con không được bỏ
cuộc nửa chừng. Không được đổ cho hoàn cảnh. Con nghe mẹ
nói hay không ?
- Dạ.
Một
nhóm người Hoa từ phía sau mẹ con tôi đi lên.
Khoảng mười, mười hai
người thanh niên nói chuyện thật sôi nổi. Khi qua
mặt chúng tôi, họ còn
cười nói ròn rã như nước chảy róc
rách quanh hòn đá. Chúng tôi đi theo
bọn họ đến đầu đường cái, và băng qua con lộ dẫn đến
trường đại học. Mẹ
con tôi lang thang qua từng khu lầu cho đến khi trời bắt đầu tối
và gió
thổi mạnh. Ðây là ngày đầu tiên trời trở
lạnh từ hôm chúng tôi dọn về
nơi này. Hôm nay tôi không chuẩn bị ăn mặc ấm,
nhưng tôi không dám cho
mẹ biết vì tôi chưa muốn về trong lúc này.
Trước đến nay, tôi chưa hề
đặt chân vào trường đại học, và tôi thật
lòng muốn so sánh sự thật của
nó với những ý nghĩ mà mình từng
hình dung trong đầu. Những dẫy lầu cổ
kính bằng đá, các lối đi có hình
vòng cung và cửa sổ vòm cao. Thảm cỏ
xanh mướt và các dây leo đã ngã sang
màu đỏ. Trên dẫy lầu hướng tây,
mặt trời le lói những chiếc lá tim tím lấp
lánh khi gió thổi. Có tiếng
reo hò từ sân vận động đưa sang. Tôi thầm nghĩ đến
một cuộc đấu tài đấu
sức đang diễn ra. Qua tiếng hò reo tôi phấn khởi nghe
vô cùng thân
thuộc. Thâm tâm tôi lưu luyến gắn bó nơi chốn
này. Các sinh viên đi
qua, tôi tưởng chừng họ nhìn tôi như một người anh
em của họ trong
'Vòng Tay Bác Ái,' nếu không phải vì
người đàn bà đang đi bên cạnh tôi,
vì bàn tay quá đỗi nặng trĩu đang đặt trên
vai tôi.
Mẹ tôi vô
tình chẳng để ý. Có lẽ mẹ vui trở lại. Mặt mẹ ửng
hồng vì gió lạnh và
vì kỷ niệm của thời học ở Yale và Trinity tìm về.
Ngày ấy mẹ thường
được vé đi xem đấu bóng cà na từ người bạn
gái có kép là cầu thủ. Mẹ
cũng từng cặp bồ với một cầu thủ người Mỹ chính gốc, tại Yale,
tên
Dutch Diefenbacher. Mẹ nói qua giọng hờ hững.
- Anh ấy cầu hôn với mẹ.
- Ông ta thật sự ngỏ lời với mẹ sao ?
-
Hắn tặng mẹ một chiếc nhẫn mua từ cửa hàng của ông ngoại,
nhưng mẹ
không nhận. Mẹ còn bảo, tôi không thể lấy một
người lớn tuổi như anh.
Mẹ tôi cười lớn sau câu nói. Tôi ngắt lời:
- Thật sự có chuyện ấy ? Một người Mỹ trắng chính gốc,
xuất thân từ Yale cầu hôn với mẹ và bị từ chối ?
- Dĩ nhiên !
Sao mẹ không lấy ông ấy.
Chúng tôi dừng lại bên cạnh chiếc máy nước
ngập đầy lá. Mẹ nhìn lom lom vào mặt nước.
- Mẹ không hiểu. Thuở ấy, mẹ quá trẻ và Dutch
không phải là người nổi bật. Anh ta tử tế dễ thương, nhưng
cù lần. Quá cù lần.
Mẹ thở dài, thốt lên như quát.
- Trời ơi, anh ta chán ngấy chịu sao nổi.
Tôi bảo:
- Nếu là con, thì con sẽ lấy ông ấy.
Thật
sự trước đây tôi không hề biết điều này.
Không thể tưởng tượng, một nữ
sinh đua đòi như mẹ tôi mà có thể để vuột
mất của tôi một người cha Mỹ
trắng chính gốc, xuất thân từ Yale. Nếu không giờ
này tôi đã giàu sụ,
biết đâu còn có người ăn kẻ ở, và mọi việc
sẽ hoàn toàn khác hẳn.
Mẹ
con tôi đánh vòng quanh bùng binh và
đi ngược trở lại. Khi ra đến đường
mẹ hỏi tôi còn muốn xem thêm căn nhà
nào nữa. Mẹ do dự:
- Dù sao đã đến đây ...
Tôi
thấy lạnh nhưng đã lỡ im lặng ngay phút đầu nếu bây
giờ than van này nọ
e kỳ. Mẹ chận hai cô gái lại hỏi thăm đường đi. Trong
lúc họ chỉ dẫn
mẹ, tôi cúi nhìn uyển sách đang chưng
bày trong tiệm nhỏ ngay đó, vờ
như mình chỉ vô tình đứng gần người đàn
bà không quen thuộc đang lạc
đường chẳng tìm được lối ra.
Buổi tối trời trong. Ánh sáng toả
yếu và dần tắt. Mẹ con tôi đi qua vài con phố, đến
dẫy nhà xưa cửa sổ
còn sáng. Gió thổi sau lưng chúng
tôi. Tôi bắt đầu run rẩy, nhưng dấu
không cho mẹ biết. Lẽ ra tôi đã nói từ sớm,
nhưng tôi ngu ngốc không
chịu nói, cho nên bây giờ chỉ biết che đậy
cái lạnh của mình bằng mọi
cách. Chúng tôi dừng lại trước căn nhà tầng
trên tối đen. Tôi ngập
ngừng:
- Tối quá mẹ ơi.
- Tối gì tối, căn nhà mình xem ở tầng trệt
mà, lo gì.
Mẹ
tôi bước đến mái hiên trong khi tôi đứng chờ
ngoài ngõ. Tôi nghe tiếng
chuông và thấy cửa sổ lay động. Mẹ quay lại khi một
cánh cửa hé mở và
người đàn ông thò đầu ra ngoài. Bóng
ông ta thật to choáng hết khung
cửa. Mẹ tôi lúng túng:
- Xin lỗi, lẽ ra tôi nên gọi trước.
- Thưa bà cần chi ?
Ông ta lộ vẻ khó chịu, nhưng khi mẹ tôi nhìn
ông thì ông dịu giọng. Mẹ tôi nói về
căn nhà. Mẹ khe khẽ.
- Có lẽ tôi đến hơi muộn.
Mẹ
tôi phân trần vì mãi xem chung quanh trường
nên quên cả giờ giấc. Mẹ
nói và nói, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ
không nhúc nhích nửa bước, như
khẳng định nếu chẳng xem được nhà thì chẳng chịu
cáo lui. Tôi tự tin,
bước đến. Người đàn ông nhìn chúng tôi
qua chiếc gọng kính màu đen,
giọng nói thoảng chút thân thiện.
- Dù sao bà đã đến đây, xin mời.
Vật
đầu tiên đập vào mắt tôi là ngọn lửa.
Tôi để ý đến mọi vật chung quanh
như bàn ghế, tủ nẻo, tranh ảnh, nhưng thật ra cặp mắt cứ chỉa
thẳng vào
ánh lửa. Ngọn lửa đang reo vui trong lò sưởi. Có
đứa con gái nằm sấp
trước vùng ánh sáng lung linh, bàn
chân trần giơ lên cao, lắc nhè nhẹ,
một tay chống cằm. Cô bé đang đọc sách. Khi
chúng tôi bước vào, cô cố
đọc thêm một phần, đoạn chồm dậy chào khách rất lễ
độ.
- Chào bác, chào anh !
Cô
bé không hẳn là người đẹp. Ngược lại, to thô,
mang đôi kính tương tự
người đàn ông. Quan sát khách lạ, cô
chớp mắt liên hồi. Tôi thấy dễ
chịu với cô bé ngay lập tức, khác hẳn vẻ xe lạ hờ
hững lúc tôi gặp con
gái đẹp. Tôi cười tươi, tự nhiên:
- Chào em !
Tôi bước đến gần ngọn lửa và ngồi xuống đưa lưng
vào, gập hai tay ra sau. Tiếng người đàn ông trả
lời mẹ tôi:
- Vâng, căn nhà này đầy đủ tiện nghi lắm thưa
bà.
Gian
phòng thật rộng, to nhất so với những căn nhà tôi
đã xem qua. Chắc mẹ
con tôi chẳng có đủ khả năng để ở căn nhà
này, nhưng tôi không màng
quan tâm đến điều ấy.
- Ðể tôi gọi nhà tôi.
Người đàn ông
bảo thế, nhưng vẫn ngồi y nguyên tại chỗ nhìn mẹ
tôi. Mẹ mĩm cười với
ông, rồi gật gù một mình như trầm tư mặc tưởng
tính toán trong đầu.
- Căn nhà thật ấm cúng. Sao ông bà nỡ bỏ đi.
Ông ta không trả lời câu hỏi của mẹ tôi, đưa
mắt nhìn đứa con gái đang nhặt vật gì dưới nền
thảm.
- Chúng ta chuẩn bị cho một vài thay đổi, phải
không nào cô bé ?
Ðứa
con gái gật đầu không đáp và chẳng
nhìn lên. Người đàn bà từ phòng
bên
cạnh bước vào, tay cầm một khay bánh. Bà ta ốm
và cao, với mái tóc muối
tiêu cột đuôi ngựa. Trên mặt có rãnh
nhăn sâu bên má chảy xuống hai
khoé miệng. Bà hướng về phía chúng
tôi, chậm rãi từng bước rất nhẹ, và
đặt khay bánh trịnh trọng lên chiếc bàn con.
- Quý vị đến đúng lúc dùng bánh đặc
biệt của giáo sư Avery.
Thoạt
đầu tôi cứ tưởng bà ám chỉ công thức
làm bánh, nhưng khi ông chồng vội
vàng nhào đến, và vốc đầy một tay thì
tôi chợt hiểu. Chẳng những ông là
giáo sư Avery, mà bánh kia dành cho
ông. Tôi e ngại khi thò tay lấy
bánh, trong khi cô bé tự nhiên nhón
hai ba chiếc. Khi ăn, người đàn bà
thả tay ra sau giáo sư Avery và tựa vào người
ông. Hình ảnh ấy gợi cho
tôi quan hệ đầm ấm giữa chồng và vợ như màn kịch
diễn thật xuất sắc
trước khán giả và ngôi nhà ấm cúng
này là nơi người ta âu yếm trìu mến
nhau. Nhìn bà giáo sư trong niềm hạnh phúc
thật đơn thuần tôi thật sự
vui dùm bà. Mẹ tôi xin phép xem qua căn
nhà.
- Nếu ông bà không ngại, tôi có thể xem
chung quanh ?
Giáo
sư Avery ra dấu cho con gái đưa mẹ con tôi đi xem
các căn phòng còn
lại. Thêm những phòng to rộng, hai gian có
lò sưởi. Sau một lúc chúng
tôi trở lại phòng khách và cùng ngồi
xuống quanh ngọn lửa. Giáo sư
Avery và vợ ngồi trên chiếc trường kỷ, mẹ tôi ngồi
trên chiếc ghế ngựa
đối diện với họ, cô bé và tôi nằm dài
dưới nền nhà. Cô bé mở quyển
sách, chân giơ lên cao đong đưa nhịp nhàng
trong khoảng không. Mẹ tôi
và bà giáo sư bàn bạc với nhau về căn
nhà. Tôi đưa mắt chăm chú vào
ngọn lửa. Tiếng động chung quanh hoàn toàn vô nghĩa
đối với tôi. Mẹ tôi
kể cho bà giáo sư về chuyến tham quan khu đại học. Mẹ
khen ngợi ngôi
trường đẹp. Giáo sư Avery ngắt lời:
- Ðẹp ? Theo bà, đẹp chỗ nào ?
Mẹ tôi im lặng.
- Có lẽ bà muốn nói về các dẫy lầu,
phòng ốc ...
- Thưa vâng, trường lớp, khuôn viên. Nói
chung, toàn bộ thiết kế ...
Giáo sư Avery lên tiếng:
- Giả tạo như cảnh trong phim trường.
Bà vợ đỡ lời:
- Ý của giáo sư muốn nói, trường đã
quá chú trọng đến hình thức bên ngoài.
Giáo sư Avery nói:
- Họ chỉ để tâm vào đó mà thôi.
Mẹ tôi nhỏ nhẹ:
- Ðiều ấy thì tôi không rõ, tôi
không phải là chuyên gia về kiến trúc.
Tôi chỉ có cái nhìn đơn giản, quang cảnh nơi
đây thật đẹp
-
Trông như các trường đại học khác mà
thôi. Họ kinh doanh ngành giáo
dục. Tất cả chỉ là sư giả dối từ đầu đến chân. Nổi tiếng
một cách giả
dối. Họ chỉ biết sơn phết bằng vật chất bên ngoài
mà không chú tâm vào
thực chất tinh thần.
Một phút trước đây giáo sư rất im lặng,
nhưng khi bắt đầu mở miệng thì ông nói không
ngừng. Và tôi chẳng muốn
ông ngừng. Giọng ông nói làm tôi ngột
ngạt, như khi đi xe mà bị ngồi
phía sau trên đoạn đường dài thăm thẳm. Ðến
lúc này, bà giáo sư đành
lên tiếng phụ họa theo lời chồng phát biểu. cô
bé trăn trở cạnh tôi. Cô
ngáp dài và lật trang sách. Trong lò
sưởi, củi vang tiếng nổ lách tách
nho nhỏ, chẳng khác nào con chó già nua
đang bẻ mình vươn vai.
Giáo
sư hăng say diễn thuyết. Mẹ gọi tên tôi. Mẹ ngồi yên
không thêm bớt
tiếng nào nữa cả, chỉ khẽ gọi tên tôi. Giáo
sư vẫn nói tuồng như chẳng
nghe. Ông nghiêng người về phía trước, ngón
tay nhịp nhàng đưa theo lời
nói, đôi kính lắc lư theo chiếc đầu gật gù.
Tôi nhìn mẹ mình ngồi bất
động, khuôn mặt lạnh lùng không cảm giác.
Ðó là thái độ chịu đựng của
mẹ khi bị gài cứng ngắt trước người bán hàng dai
dẳng, hoặc nhà truyền
giáo kiên trì không chịu bỏ cuộc. Tôi
biết mẹ muốn tháo lui. Nhưng tôi
chưa muốn về và tôi cũng quên hẳn đấy không
phải là nhà mình. Sự ấm
cúng bên ánh lửa hồng tỏa ấm lòng tôi
và giọng giáo sư đều đều ru ngủ
trong cảnh êm đềm của một gia đình hạnh phúc.
Tôi cố quên đi sự thật
trước mắt. Họ đâu phải có máu mủ họ hàng với
mình, và chẳng bao lâu nữa
họ sẽ rời bỏ căn nhà và nơi chốn này. Song,
tôi lại tô đậm vẽ hồng thêm
thắt họ vào câu chuyện thêu dệt của mình, bất
kể một điều rất vô lý là
họ còn có cuộc đời riêng của họ.
Tôi hoàn toàn không hiểu việc
gì đã xảy ra sau đó, vì tôi
không còn gặp lại họ thêm lần nào nữa.
Ðến
bây giờ, sau nhiều năm trôi qua, tôi ngồi đây
suy nghĩ vẩn vơ, giáo sư
Avery bị từ chối quyền cư trú trong khuôn viên
trường đại học. Ðây
không phải là ngôi trường đầu tiên đối xử bất
công với ông, cũng không
hả(n là ngôi trường cuối cùng. Tôi
hình dung sự tranh đấu của ông từ
một trường kém phẩm vị này đến một trường khác.
Qua mỗi lần bị từ chối,
tinh thần chống đối và đời sống nội tâm của ông
càng dâng cao. Ðồng
nghiệp của ông, những con người có đầu óc hạn hẹp
và trái tim không
rộng mở chế nhạo ông là kẻ hay gây hấn, tạo sự phiền
hà và nhàm chán.
Họ ám chỉ dè bĩu sự thanh cao của ông, cho rằng để
che đậy phần thiếu
sót, yếu kém trong phạm vi chuyên môn của
mình. Qua năm này tháng nọ
ông cứ thuyên chuyển hết trường nọ sang trường kia.
Bà giáo sư đành an
ủi vết thương lòng của ông, cuộc sống nội tâm
có chiều sâu của chồng
mình bằng sự chung thủy tận tụy khó ngã gục của
bà, và đương đầu với
nỗi khổ tâm của chồng về cuộc sống vật chất ngày
càng lấn lướt bằng các
khay bánh ngày càng đầy và nhiều hơn.
Bà tin tưởng ở chồng mình. Niềm
tin của bà, trong bất cứ nguyên do nào cũng đều
đáng được tuyên dương.
Bà luôn nghĩ rằng niềm vui đơn thuần của mình, như
người bạn cũ thân
thiết, như cõi riêng bất khả xâm phạm, như cuộc sống
đâm chồi bám rễ từ
cộng đồng xã hội, tất cả đều là vật hy sinh không
phải cho lẽ phải sự
thật, cho điều cao cả mà cho phù du ảo mộng, cho
ích kỷ và sự kiêu căng
tự mãn. Lẽ tất nhiên, đâu phải người đàn
bà nào cũng có thể sâu sắc
thấu hiểu được những điều như thế.
Có thể nói, phần mất mát ấy
thuộc về cô bé. Cô phải được tuyên dương anh
hùng. Cô đâu có quyền lựa
chọn nguồn gốc của mình, làm con của họ. Chẳng bao
lâu, cô sẽ hiểu rõ
những điều bất như ý trong đời mình. Tất cả đều bắt nguồn
từ thất bại
của cha mẹ. Ai có thể hiểu điều thua thiệt cay đắng ấy rõ
ràng hơn cô
bé ? Bối cảnh còn đây. Giáo sư Avery bị
lên án về con người quá thật
của ông, bà giáo sư bị lên án về con
người tế nhị điềm đạm của bà.
Chuyến thăm nhà từ Barnard hoặc Reed, hoặc bất cứ nơi nào
học bổng đưa
đẩy cô bé, từ thành phố xa xôi nơi cô
làm việc. Tất cả diễn ra như màn
kịch có tuồng tích lớp lang. Lời giận dữ thầm thì
to nhỏ trong gian
bếp, tiếng la mắng bên bàn ăn, hoặc cuộc khởi hành
trong sương sớm. Tất
cả lập đi lập lại nhiều năm, và chắc chắn chẳng phải là
điều vĩnh viễn.
Cô bé cố tạo sự bình yên bên cha mẹ.
Thậm chí cô còn mang niềm vui thay
thế lòng bất mãn oán hận của mình, bao
chuyến dời đổi không ngừng, cuộc
sống lặng câm của cha mẹ, và bản chất độc lập khác
người của họ trong
một xã hội mập mờ đầy khó hiểu. Cô chẳng thể
làm gì khác hơn là yêu
thương cha mẹ mình. Ai có thể yêu mến họ hơn
cô bé\ ?
Bằng
cách này hay cách khác, tôi đã
lồng họ vào nhân vật trong câu chuyện
của mình, mặc dù chẳng biết rõ họ là ai.
Chỉ biết, ngay đêm ấy tôi mơ
màng tưởng tượng mình là một phần tử của gia
đình họ, khi chúng tôi chỉ
là những người hoàn toàn xa lạ. Trải qua bốn mươi
lăm phút vỏn vẹn
trong ngôi nhà ấy, vừa đủ cho tôi thấy ấm áp
cõi lòng và quên hết mọi
sự trên đời.
Mẹ gọi tên tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn không
nhúc nhích cục cựa. Thông thường, chẳng cần mẹ
kêu réo, tôi đã chuẩn bị
khi biết mẹ muốn ra về, chẳng phải vì tôi ngoan
ngoãn vâng lời. Chỉ vì
tôi khoan khoái mang đôi chút hãnh
diện khi muốn chứng tỏ mình có nề
nếp. Nhưng lần này, nghe tiếng mẹ gọi tôi chỉ đưa mắt nhăn
nhó. Thấy
tôi ngồi lỳ, mẹ từ từ đứng dậy. Tôi đọc được sự ngạc
nhiên trong mắt
mẹ. Mọi người đứng lên theo mẹ, ngoại trừ tôi. Khi mẹ ra
gần đến cửa,
tôi mới vội vàng bật dậy ấp úng chào từ
giã trong họng, và chạy theo.
Giáo sư Avery tiễn mẹ con tôi ra tận bên
ngoài. Mẹ ngập ngừng.
- Ðến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đây là một
ngôi trường tuyệt đẹp.
Ông cười thật lớn. Chẳng hiểu vì hoan hỉ hay chua
chát.
- Cho là thế. Ðẹp với nó thôi chứ đẹp với ai.
Ông chờ mẹ con tôi ra đến đầu ngõ mới quay trở
vào tắt đèn, đóng cửa. Tôi nghe tiếng cửa
đóng sầm sau lưng. Mẹ tròn mắt.
- Thế là sao ?
Tôi nhún vai chẳng trả lời.
- Con có sao không ?
- Không sao cả mẹ ơi, ... chỉ lạnh tí mà thôi.
- Lạnh ? Sao suốt buổi ngậm câm không nói ?
Mẹ cởi áo khoác đưa qua tôi.
- Nè !
- Con không sao mà ...
- Mặc vào !
- Thật mà, con không sao hết.
- Mặc vào, đồ ngốc !
Tôi khoác chiếc áo. Hai mẹ con đi một đoạn,
tôi bảo:
- Dị quá mẹ.
- Rồi sao ? ai cười ?
- Con thấy kỳ.
- Biết kỳ hở ? Cả buổi tối mi dở dở ương ương.
- Con không mặc lên xe đâu nhé.
- Ai bảo mi mặc lên xe ?
Tôi kéo cổ áo lên cao, và so vai.
- Còn lạnh hở ?
- Tí ti.
Tôi
rùn mình, lạnh như chưa bao giờ biết lạnh, và đổ
lỗi cho mẹ đã bắt tôi
rời ngọn lửa hồng. Tôi hiểu không phải do lỗi của mẹ, nhưng
tôi muốn đổ
cho mẹ, cho ngọn gió thổi lên mặt tôi rát
buốt và cho mọi điều không
tên tuổi lẽ ra đừng nên xảy đến.
- Sang đây, con !
Tôi
nhích ra xa, mẹ kéo tôi đến gần, và
chà xát bàn tay của mẹ lên cánh tay
tôi. Tôi né ra ngoài, nhưng mẹ giữ tôi
lại, và tiếp tục vuốt tay tôi.
Tôi thấy dễ chịu. Mẹ chợt hỏi:
- Nè con ! con nghĩ sao về ngôi trường này ?
thành thật nhé.
- Con thích nơi này.
- Mẹ nghĩ ... ngôi trường rất khá.
- Con cũng vậy.
Mẹ tôi lẩm bẩm.
- Lão kiêu căng, như mắng vào mặt người ta.
Giờ
tôi đã có lò sưởi riêng cho
mình. Nơi tôi ở, mùa đông thật dài
và thật
lạnh. Gió thổi bần bật, giạt tuyết qua hai bên lối đi. Căn
nhà trở mình
kêu kèn kẹt, cửa sổ đóng đầy sương và
đá. Sau bửa ăn tối, tôi chất củi
nhóm lò. Các con tôi nôn nóng
chờ đợi. Sau đó chúng ngồi ngắm ngọn lửa
bằng đôi mắt tôn sùng chiêm ngưỡng. Nhà
tôi bước vào trìu mến nhìn ánh
lửa hồng. Nàng cầm quyển sách và nằm xuống chiếc
ghế dài, nhưng chẳng
đọc. Tôi cũng thế, quyển sách nằm chơ vơ bên cạnh
tôi. Tôi ngắm ngọn
lửa, ngắm ánh sáng lung linh thay đổi trên từng
gương mặt thân yêu của
mình. Tôi khoan khoái trong sự đầm ấm ngọt
ngào của gia đình. Tuy nhiên
sâu xa trong tâm hồn, tôi nghe vướng víu
thoáng lo âu, sợ niềm hạnh
phúc này sẽ tan biến, như có tiếng gọi từ
đâu bất ngờ đánh thức cơn mơ
choàng dậy.
|
|
|