Trong thời kỳ này, ngoài việc viết báo, ông con phụ trách giảng về văn nghệ nhân dân và chính sách lãnh đạo văn nghệ của Ðảng đối với văn nghệ sĩ trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê bình là giảng sai đường lối của Ðảng, ông tức mình xin đi công tác tiền tuyến và được cử lên mặt trận Ðiện Biên Phủ. Xúc cảm trước sự tấn công ào ạt của quân đội kháng chiến vào thành lũy của Pháp, nhất là trước cái chết thê thảm của Tô Ngọc Vân, bạn đồng hành của ông. Trần Dần sáng tác cuốn Người Người Lớp Lớp. Nhờ cuốn sách này ông được Ðảng yêu chuộng trở lại và năm 1954 được cử đi Trung quốc để viết bản dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim "Chiến thắng Ðiện Biên Phủ" là cuốn phim Việt Minh đóng lại trận Ðiện Biên Phủ do cán bộ Trung cộng sang quay và mang sang Tàu thu thanh .
Nhân chuyến du hành này, Trần Dần được tiếp xúc với nền văn hóa của Trung Cộng. Ông lấy làm thất vọng nên khi trở về, ông nói nhỏ với bạn bè : "Chớ nên theo đường lối văn nghệ của Trung Quốc".
Cùng đi với ông sang Trung quốc có một cán bộ chính trị phụ trách về đường lối giải thích , nhưng tên cán bộ này mặc dầu dốt đặc về văn chương nhưng cũng cứ nhất định dùng quyền lực chính trị của mình để sửa chữa từng câu, từng chữ của Trần Dần, mà có khi ngang nhiên đọc lời giải thích của mình cho Trần Dần viết. Ông lấy làm bất mãn, nên khi về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh và Ðỗ Nhuận, cùng trong cảnh ngộ, viết kiến nghị lên cấp trên yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ .
Kiến nghị còn đang được cứu xét thì xẩy ra một việc quan trọng hơn. Ðó là việc Trần Dần tự tiện lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của Ðảng. Theo một đạo luật bất thành văn mà Ðảng đã đặt ra, các đảng viên cấp xã phải báo cáo cho cấp trên biết trước mỗi khi dự định lấy vợ, lấy chồng ; các đảng viên huyện (trường hợp của Trần Dần) phải xin phép Ðảng mới được cưới xin hoặc yêu đương, còn về phần các đảng viên cấp tỉnh trở lên thì việc dựng vợ gả chồng là đo Ðảng quyết định .
Trần Dần tuy là đảng viên ,nhưng vẫn giũ tính chất văn nghệ sĩ, không chịu nổi luyến ái quan Mác Xít. Hồi ở chiến khu bao nhiêu lần Ðảng "xây dựng" cho ông với các nữ đồng chí , ông dều không chịu và khi hòa bình trở lại, ông tình cờ gặp và mê ngay một thiếu nữ tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một mình, vì bố mẹ họ hàng di cư vào Nam không kịp mang theo .
Trần Dần xin phép Ðảng để cưới người yêu, nhưng Ðảng nhất định không cho vì một lý do căn bản : người con gái đó theo đạo Thiên Chúa. Tuy vậy, Ðảng không nêu lên lý do tôn giáo để từ chối mà chỉ giải thích rằng người con gái đó sống về tiền thuê nhà mà bố mẹ để lại nên thuộc vào thành phần bóc lột, và một đảng viên không thể lấy vợ giai cấp "địch".
Trần Dần không chịu cắt đứt tình yêu nên khuyên ý trung nhân mang nhà cửa bố mẹ để lại giao cho ủy ban quản trị tài sản của những người vắng mặt trông coi và thu hoa lợi; hai người đều cam chịu sống trong cơ cực để yêu thương nhau. Ðảng bèn rẽ duyên bằng cách điều động Trần Dần lên Việt Bắc công tác, nhưng Trần Dần lấy cớ ốm đau xin về Hà Nội nghỉ dài hạn và tự ý xin ra khỏi Ðảng, ngang nhiên đến phố Sinh Từ sống với tình nhân không cần cưới xin. Ðảng toan trừng trị, nhưng ngặt vì lúc đó đang có phong trào di cư, nên không dám khủng bố bất cứ ai sợ làm náo động nhân tâm khiến cuộc di cư bành trướng thêm. Ðảng bèn nuốt giận làm lành, chỉ gây dư luận là Trần Dần đã sa đọa, rơi vào hố tư sản phản động .
Nhưng sau khi đóng cửa Hải Phòng, Trần Dần lại làm một việc táo bạo thứ hai là phê binØh đả kích cuốn "Thơ Việt Bắc" của Tố Hữu, một thi sĩ giữ chức trung ương ủy viên, phụ trách lãnh đạo văn nghệ. Tố Hữu liền ra lệnh bắt cóc Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc. Vợ Trần Dần lại sống bơ vơ giữa Hà Nội một lần nữa, hỏi thăm chồng ở đâu, không ai biết, vẫn thất nghiệp, lại thêm bụng mang dạ chửa. Bạn bè của Trần Dần phải chung tiền giúp đỡ và thay phiên đến thăm hỏi nâng đỡ tinh thần .
Tin Trần Dần bị bắt mang đi biệt tích lan ra khắp Hà Nội và gây dư luận sôi nổi trong giới trí thức kháng chiến. Ðể dẹp yên dư luận, Ðảng bèn sửa sai bằng cách đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất. Ðảng cũng gọi vợ Trần Dần đến cho công việc may vá cho Mậu Dịch .
Không được bao lâu, xẩy ra vụ Krushchev hạ bệ Stalin. Nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Ðảng bằng cách xuất bản tập Giai Phẩm 1956 (sau này gọi là Giai phẩm mùa Xuân). Lúc này Trần Dần không có mặt ở Hà Nội, nhưng Hoàng Cầm là bạn thân, biết Trần Dần hồi 1954 có viết bài "Nhất định thắng" có giá trị , nên đến nhà bảo vợ Trần Dần đưa bản thảo và mang in trong tập Giai Phẩm .
Tờ tạp chí vừa in xong thì bị tịch thu ngaỵ Ðảng ngờ rằng Trần Dần đã bị nằm tù mà còn dám viết bài chống Ðảng nên gọi Trần Dần về, mang ra đấu giữa một cuộc hội nghị của đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần vào tội phản động, lấy cớ là trong các bài thơ ông có dùng chữ "Người" viết hoa nên gán cho ông có ý đả kích cụ Hồ và ra lệnh tống giam vào nhà pha Hỏa-lò ở Hà Nội. Trần Dần uất ức quá dùng lưỡi dao cạo cứa cổ, nhưng không chết, sau này vẫn mang cái sẹo ở cổ .
Năm tháng sau, Việt cộng tuân theo chỉ thị của Ðệ Tam Quôc' Tế phát động phong trào sửa sai . Giới trí thức được dịp phát động phong trào đấu tranh chống Ðảng. Họ xuất bản tờ Giai Phẩm muà Thu và tờ Nhân Văn, lên tiếng phản đối vụ tịch thu tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân và việc khủng bố Trần Dần .
Cụ Phan Khôi có nêu hai vấn đề này trong bài "Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ" đăng trong Giai Phẩm mùa Thu và Hoàng Cầm viết một bài nhan đề "Con Người Trần Dần" đăng trong tờ Nhân Văn số đầu. Bị công kích không có thế đỡ, Ðảng bèn thả Trần Dần về và phục hồi danh dự bằng cách ra lệnh cho Hội Văn Nghệ viết bản tự kiểm thảo đăng trên các báo. Nhóm Giai Phẩm bèn tái bản tờ Giai Phẩm mùa Xuân trong đó có bài thơ "Nhất Ðịnh Thắng" của Trần Dần .
Nhưng sau khi Nga Sô đàn áp cuộc khởi nghĩa Budapest thì Việt cộng cũng đóng cửa tờ Nhân Văn và Giai Phẩm. Một lần nữa, Trần Dần lại bị quy là phản động và bị "treo giò" không được viết văn. Nhưng đến tháng cuối năm 1957, nhân báo Văn trở lại chống Ðảng, Trần Dần gửi đăng một bài thơ nhan đề là "Hãy Ði Mãi" nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng .
Về thơ, ông còn sáng tác những bài :
"Nói thật" trong đó ông lý luận rằng chỉ vì cán bộ hèn nhát không dám nói thật với Ðảng nên mới xảy ra vụ "sai lầm" trong cải cách ruộng đất.
"Nhân Văn làm lớn con người" trong đó ông đề cao nhân văn .
"Một bài thơ chưa có đề" trong đó ông ám chỉ Tố Hữu là nhà thơ "ti tỉ đờn bầu"
Về truyện, ông viết :
"Chú bé làm văn" để chỉ trích nền giáo dục Cộng sản chuyên môn tập cho trẻ em nói dối từ thuở bé để sau này nói dối thuê cho Ðảng .
"Mâu thuẫn với cả nước" tả một nhạc sĩ bất tài (ám chỉ Lương Ngọc Trác) dùng thế lực Ðảng, quy cho một nhạc sĩ có tài hơn mình vào tội "mâu thuẫn với cả nước".
"Lão Rồng" tả một nông dân hiền lành bị bọn "lý trưởng mới" chà đạp .
Nhưng đặc biệt hơn cả là truyện Anh Cò Lắm, tả sự khổ cực của nông dân trong cải cách ruộng đất. Trong đó có đoạn như sau:
"Tôi đi thẳng vào nhà Cò Lắm. Vắng cả, nhà chả có ai, nhưng có tiếng trẻ khóc. Ba gian nhà nhỏ vẫn một cái giường, một cái chõng, có thêm một lá cờ đỏ rắt mái nhà rủ trước mặt bức ảnh Hồ chủ tịch. Một đứa bé con độ lên hai bò giữa nhà, giời rét mà độc một manh áo nâu, còn cởi chuồng, chân tay lắm mụn, bôi phẩm xanh lè cả ngườị Thấy tôi nó càng khóc, giơ tay quẹt má. Tôi nhìn: Tay nó có cái gì vàng vàng ? à ra cứt, nó ỉa một đống còn kia, cổ chân nó lại buộc một cái dây bằng vải khá dài, một đầu dây buộc vào cột nhà, chắc hẳn mẹ nó buộc nó vào dây cho nó chơi một mình ."
Trừ có hai bài thơ Nhất Ðịnh Thắng và Hãy Ði Mãi ông ký tên thật, còn tất cả những bài khác đều ký bằng bí danh, sau này bị tra khảo trong tù ông mới nhận là chính ông viết .
Sau đây chúng tôi chỉ trích hai bài: Nhất Ðịnh Thắng và Hãy Ði Mãi vừa điển hình cho lối thơ của ông, vừa nói lên tâm sự của thế hệ mới ở Bắc Việt:
Bài thơ này đã gây nên cuộc đấu tố tác giả, khiến tác giả phải cứa cổ tự tử.
Vì vậy nên
tuy dài, chúng tôi cũng đăng trọn bài .
Ðại ý của tác giả là nêu sự đói
rét của đất Bắc và nỗi u buồn trong lòng người
phương Bắc hiện nay.
NHẤT ÐỊNH THẮNGTôi ở phố Sinh Từ :
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?
Tổ quốc hôm nay
tuy gọi sống hòa bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh ...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui --- khi chợt nhớ -- chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt .
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta ?
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Ðất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng , máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được --- mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem : có phải vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ quốc hôm nay rớm máu
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhung nhức chuyện đi Nam
Những con mưa rơi mãi tối xầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi .
- Dừng lại !
- Ði đâu ?
- Làm gì ?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa , thiếu vân vân
Có cả anh Nam chị Nữ kêu buồn
- ở đây
- Khát gió thèm mây ...
- Ô hay !
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi ?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng củ a Mỹ !
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
Bỏ tôi ư ? -- từng vạt áo -- Gót chân
Tôi muốn kêu lên -- những tiếng cọc cằn ...
- Không ! Hãy ở lại !
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
.... non bồng Mỹ triệu lần ...
Mảnh đất dễ mà quên ?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư ? Sao chẳng nói thực thà ?
Chỉ là :
- thiếu quả tim , bộ óc !
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão .
Họ vẫn ra đi .
- Nhưng sao bước rã rời ?
Sao họ khóc ?
Họ có gì thất vọng ?
Ðất níu chân đi .
gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống .
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Răng rối lại : - mỗi lùm cây - hốc đá
- Mỗi căn vườn -- gốc vả -- cây sung
Không nói được chỉ còn nức nở
Trắng con người nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đuờng cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy -- quên làm sao được ?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió dập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc ...
Ai dẫn họ đi ?
-- Ai ?
Dẫn đi đâu ? -- mà họ khóc mãi thôi !
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống-- quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
- khổ nhiều rồi !
Họ