NT 131 - tháng 2 - 2005



ĐỔ XĂM HƯỜNG

Trần thị Lý



Một trong những lễ tiết quan trọng của người Việt là Tết Nguyên Đán, thường được quen gọi tắt là Tết. Đây là dịp nghỉ ngơi giải trí chung của mọi người, mọi giới và kéo dài qua nhiều ngày. Việt Nam trước đây vốn là một xứ trọng nông, người dân quanh năm khổ nhọc với công việc đồng áng, chỉ được thư thả, nhàn rỗi vào mùa xuân. Vào dịp này khắp nơi đều có mở hội mừng Xuân, hội chợ Tết. Tùy theo điều kiện khí hậu và tập quán từng địa phương, nơi này mở hội vào tháng Giêng, nơi khác vào tháng Hai hay tháng Ba:
Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè. (Ca dao)

Nhưng tựu trung dù bất cứ ở địa phương nào, ba ngày đầu năm vẫn là ba ngày TẾT chính thức:
Mồng Một ăn Tết nhà cha,
Mồng Hai nhà vợ, mồng Ba nhà thầy. (Ca dao)

Nhiều nơi việc vui xuân thường chỉ diễn ra trong vòng tháng Giêng:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng Hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà... (Ca dao)

Trên khắp mọi miền đất nước, những thú vui xuân thật không thể nào kể hết, được gọi chung là bách hí: múa lân, đốt pháo, đua thuyền, hát đối... và đặc biệt một thú vui rất phổ thông không thể thiếu, đó là chơi cờ bạc. Gặp nhau vào ngày đầu xuân, sau lời chúc tụng, người ta thường hỏi nhau “đã thử thời vận chưa?”, “đã khai xuân chưa?”. Thử thời vận hay khai xuân đều có hàm ý là bói xem sự may rủi trong năm qua canh bạc. Người ta tin rằng việc được thua, hên xui qua canh bạc đầu xuân là điềm báo hiệu về công việc làm ăn trong suốt cả năm. ỞÛ trong nhàø cùng với bà con và bạn bè, người ta chơi tứ sắc, bài xẹp, bài tới, tam cúc, tổ tôm..., về sau có thêm những trò chơi bài tây như xì phé, xì lát, xập xám, cạc-tê v.v... Ở những nơi công cộng thì có những môn xóc đĩa, bài vụ, nhứt lục, bài chòi, lô-tô, tài xỉu... Đặc biệt có môn chơi “đổ xăm hường”, lúc ban đầu bắt nguồn từ cố đô Huế, về sau lan rộng ra nhiều nơi khác. Bài bạc tuy là để mua vui, tiêu khiển nhưng có nhiều môn ngoài chuyện hên xui may rủi còn có thêm phần đấu trí cao thấp mà đôi khi còn kèm theo cả mưu mẹo và thủ đoạn. Chỉ riêng “đổ xăm hường” là thú chơi thực sự lành mạnh, tao nhã, thuần túy giải trí, không có tính cách sát phạt; số người tham dự không phải chỉ giới hạn ba hay bốn tay như bài xẹp, tứ sắc; cũng không xô bồ quá nhiều đến hàng chục người như xóc đĩa, nhứt lục... mà có thể du di từ bốn tới bảy hay nhiều khi có thể tùy nghi thay đổi thêm bớt hơn thế nữa.

Đổ xăm hường, thắng bại hoàn toàn dựa vào thời vận. Sáu hột súc sắc gieo xuống chiếc tô sành, kết quả do may rủi tự nhiên, người chơi không thể chủ động theo ý riêng của mình như ở nhiều môn chơi khác.

Thành phần bộ xăm hường
- Bộ hột: Có tất cả sáu (6) hột súc sắc hay còn gọi là tào cáo có hình khối vuông, cạnh dài khoảng 15mm, góc được gọt hơi tròn để các hột dễ lăn và khỏi kê gối lên nhau. Trên mỗi mặt hột có những chấm lõm tròn được sơn màu theo thứ tự nhứt, nhì, tam, tứ, ngũ, lục (tức 1, 2, 3, 4, 5, 6). Hai mặt nhứt (1) và tứ (4) sơn màu đỏ, các mặt khác màu xanh hay đen.

- Bộ thẻ: Gồm sáu (6) loại thẻ khác nhau về kích thước, có giá trị đơn vị từ 1 điểm cho thẻ nhất hường đến 32 điểm cho thẻ trạng anh, dựa theo thang học vị của Trường Thi ngày xưa. Tổng giá trị mỗi loại trong bộ thẻ là 32 điểm . Tổng số điểm của toàn bộ xăm hường là 192 điểm (32x6=192). Các thẻ làm bằng tre, gỗ, xương hay ngà .

1). Nhất hường là loại thẻ nhỏ nhất có giá trị 1 điểm, có một nốt chấm sơn màu đỏ ở giữa, mang học vị Tú Tài, gồm tất cả 32 thẻ.

2). Nhị hường có giá trị 2 điểm, có hai nốt chấm sơn đỏ, học vị cử nhân, gồm 16 thẻ.

3). Tứ tự có giá trị 4 điểm, trên mặt thẻ có ghi số 4, học vị Tiến sĩ, gồm 8 thẻ.

4). Tam hường giá trị 8 điểm, mặt thẻ ghi số 8, học vị Hoàng Giáp, gồm 4 thẻ.

5). Trạng em giá trị 16 điểm, ghi số 16, học vị Bảng nhãn hay Thám Hoa, 2 thẻ.

6). Trạng anh giá trị 32 điểm, mặt thẻ ghi số 32, học vị Trạng nguyên, chỉ một thẻ.

Trên các thẻ trạng có khắc hay vẽ đầu một vị khoa bảng đội mũ cánh chuồn, có mang râu.

Bộ Xăm Hường ở những gia đình bình dân được lưu giữ giản dị trong một chiếc hộp; ở những gia đình trưởng giả, quyền quí thì được sắp xếp trên một giá gỗ theo ngôi thứ học vị (cho ba thẻ trạng) và trong một chiếc ống bằng gỗ hay tre được sơn màu như ống xăm nơi các đền, chùa (cho các loại thẻ khác), được trưng bày như một loại đồ trang trí.

Các nguyên tắc của môn xăm hường
Nhân số: Số người tham dự cuộc chơi “đổ xăm hường” được du di từ bốn tới bảy nhưng lý tưởng nhất là sáu. Tuy nhiên, khi thấy hứng thú thì dù chỉ hai người hay khi số người có mặt đông mà muốn cùng chung vui, thì dù tới tám, cuộc chơi vẫn có thể thực hiện được. Người chơi nắm gọn sáu hột súc sắc trong lòng bàn tay, gieo xuống một chiếc bát sành có đáy rộng để hột khỏi kênh chồng lên nhau, rồi tính điểm theo kết quả trên sáu mặt hột.

Cách tính điểm:
- Tính điểm theo mặt tứ: Mặt tứ còn gọi là mặt hường vì bốn nốt sơn trên mặt này màu hường hay hồng. Nốt sơn trên mặt nhất cũng màu hồng nhưng không được gọi là hường. Điểm được tính theo số mặt tứ hiện ra trên 6 mặt hột, nếu có:

- 1 mặt tứ gọi là nhất hường, nhận một thẻ Nhất hường, tính 1 điểm.

- 2 mặt tứ gọi là nhị hường được thẻ Nhị hường, tính 2 điểm.

- 3 mặt tứ gọi là tam hường được thẻ Tam hường, tính 8 điểm.

- 4 mặt tứ gọi là tứ hường được thẻ Trạng anh, 32 điểm.

- 5 mặt tứ gọi là ngũ hường được luôn cả thẻ trạng anh và 2 thẻ trạng em, tính 64 điểm. Vì đoạt hết cả ba trạng nên người ta thường nói là ngũ hường đoạt tam khôi.

- 6 mặt tứ gọi là lục phú hường, được quyền thu tóm tất cả sáu loại thẻ từ nhất hường đến trạng anh nghĩa là được toàn bộ tổng số 192 điểm. Những người khác phải chịu thua gấp hai lần số điểm mình bắt buộc cần phải có tính theo số người tham dự. Ví dụ nếu có 6 người chơi thì mỗi người phải thua 64 điểm (32 x 2 = 64).

- Trường hợp đặc biệt 1: chỉ có hai mặt tứ nhưng bốn mặt còn lại là hai ngũ và hai lục gọi là “hạ mã”, được một thẻ trạng em 16 điểm.

- Trường hợp đặc biệt 2: chỉ có ba mặt tứ nhưng ba mặt còn lại đều giống nhau (cùng là nhất, nhị, tam, ngũ hay lục) gọi là Phân song tam hường, được một thẻ trạng em và một thẻ tam hường, tổng cộng 24 điểm.

Tính điểm theo các mặt khác (nhất, nhì, tam, ngũ và lục):
- 4 mặt giống nhau gọi là Tứ tự, được thẻ Tứ tự, tính 4 điểm.

- 4 mặt giống nhau và 1 mặt tứ gọi là Tứ tự nhất hường, được 1 thẻ tứ tự và 1 thẻ nhất hường, cộng 5 điểm.

- 4 mặt giống nhau và 2 mặt tứ gọi là tứ tự nhị hường, được 1 thẻ tứ tự và 1 thẻ nhị hường, cộng 6 điểm.

- 4 mặt giống nhau mà hai mặt kia cộng lại bằng mặt giống nhau đó thì gọi là Tứ Tự Cáp, được thẻ trạng em 16 điểm; ví dụ tứ tự nhì tức 4 mặt giống nhau là nhì, mà 2 mặt kia đều là nhất cộng lại bằng nhì thì gọi là tứ tự nhì cáp; một ví dụ nữa: tứ tự ngũ tức 4 mặt ngũ mà hai mặt kia là 1 và 4 hoặc 2 và 3 đều cộng lại bằng 5 thì gọi là tứ tự ngũ cáp. Trường hợp tứ tự nhất tức 4 mặt giống nhau là mặt nhất, thì hai mặt còn lại cộng chung không thể nào bằng 1 được nên người ta chấp nhận cho mặt 6 và mặt 5, cộng chung bằng 11 là tứ tự nhất cáp.

- Hai cặp gồm ba mặt giống nhau (như 3 nhất và 3 tam chẳng hạn) gọi là phân song, được thẻ trạng em 16 điểm. Khi một trong hai cặp đó là 3 tứ thì gọi là Phân song tam hường (đã được nói ở đoạn trên).

- Ba cặp mặt giống nhau liên tiếp: 2 nhất 2 nhì và 2 tam gọi là Thượng mã, 2 tứ 2 ngũ 2 lục gọi là Hạ Mã (đã nói ở đoạn trên) thì được thẻ trạng em 16 điểm. Nếu ba cặp liên tiếp là 2 nhì, 2 tam 2 tứ hay 2 tam 2 tứ 2 ngũ thì chỉ tính như nhị hường, chỉ được thẻ nhị hường 2 điểm mà thôi.

- Năm mặt giống nhau gọi là ngũ tử được thẻ Trạng anh 32 điểm.

- Sáu mặt giống nhau gọi là Lục phú, được thu tóm tất cả sáu loại thẻ từ nhất hường tới trạng anh, những người khác trở thành tay trắng, phải chịu thua toàn bộ số điểm phần mình phải có. Trường hợp đặc biệt khi 6 mặt giống nhau là tứ thì gọi là Lục phú hường, phần thắng tăng lên gấp hai lần những thứ lục phú khác (như đã được nói ở phần trên).

- Sáu mặt đều khác nhau: nhất, nhì, tam, tứ, ngũ, lục gọi là suốt, được lấy thẻ trạng em, 16 điểm.

Thẻ thay thế
Mới bắt đầu vào ván chơi, hễ ai đổ được loại thẻ nào thì lấy thẻ đó. Sau một hồi, vài loại thẻ lớn đã bị hết không còn nữa, người ta dùng những thẻ kế tiếp nhỏ hơn để thay thế, giá trị góp lại tính bằng điểm của thẻ đổ được. Ví dụ đổ được trạng em 16 điểm nhưng thẻ trạng em không còn, người ta nhận thay bằng 2 thẻ tam hường hay1 thẻ tam hường và 2 thẻ tứ tự... nếu các thẻ tam hường hay tứ tự cũng không còn đủ thì tiếp tục thay thế bằng các thẻ loại nhỏ hơn như nhị hường và nhất hường.
Tuổi trạng

Mỗi lần đổ được trạng, giá trị cao thấp của trạng được định theo số tuổi.

Tuổi trạng được tính dựa vào tổng số 2 mặt thứ 5 và 6 còn lại của trạng tứ hường hay vào mặt thứ 6 còn lại của trạng ngũ tử và của trạng ngũ hường đoạt tam khôi.

- Tuổi trạng tứ hường là tổng số chấm sơn trên 2 mặt còn lại, ví dụ 2 mặt nhứt là 2 tuổi, 2 mặt lục là 12 tuổi. Giá trị từ cao xuống thấp gồm:

1). Hai mặt nhì: Cáp chính.

2). Một mặt nhứt và một mặt tam: Cáp xiên.

3). Hai mặt lục: 12 tuổi.

4). Một lục, 1 ngũ: 11 tuổi.

5). Hai ngũ: 10 tuổi.

Cứ tiếp tục như thế đến tuổi thấp nhất là 2 tuổi, ngoại trừ 4 tuổi tức là cáp chính hay cáp xiên được xem như cao hơn cả 12 tuổi và cáp chính cao hơn cáp xiên.

- Tuổi trạng ngũ tử tính dựa theo số chấm sơn trên mặt thứ 6 còn lại. Giá trị từ cao xuống thấp gồm:

1). Mặt tứ: Ngũ tử đại ấn.

2). Mặt lục: Sáu tuổi.

3). Mặt ngũ: năm tuổi.

Cứ tiếp tục như thế đến thấp nhất là mặt nhất (1 tuổi), ngoại trừ mặt tứ tức Ngũ tử đại ấn là cao nhất, trên cả 6 tuổi.

- Tuổi trạng Ngũ hường tính từ cao nhất 6 tuổi xuống thấp nhất 1 tuổi, không có trạng ngũ hường 4 tuổi vì ngũ hường 4 tuổi chính là lục phú hường.

Đoạt trạng
Còn gọi là giật trạng hay cướp trạng. Khi cùng trong một ván chơi mà trạng được đổ ra nhiều lần, sẽ có chuyện đoạt trạng rất hào hứng, vui nhộn. Việc đoạt trạng được qui định theo tuổi trạng cao thấp. Ngoài lục phú (được thu tóm toàn bộ các thẻ) hay lục phú hường (có giá trị gấp đôi lục phú thường) khiến ván chơi được kết thúc ngay, thì, nếu trong cùng một ván, người đổ ra trạng trước có tuổi thấp sẽ bị người đổ ra trạng sau có tuổi cao hơn “cướp trạng”. Trạng tứ hường chỉ được đoạt của loại tứ hường, trạng ngũ tử đoạt của loại ngũ tử. Trạng ngũ hường đoạt của loại ngũ hường và cố nhiên đoạt của tất cả các loại tứ hường và ngũ tử. Thứ tự cao thấp của các loại trạng đã được trình bày theo tuổi trạng ở phần trên.

Người đổ ra trạng sau nếu tuổi trạng thấp hơn của người đổ ra trước, sẽ không cướp được trạng nhưng lại được nhận một số thẻ mà tổng số điểm tương đương với 32 (nếu là tứ hường hay ngũ tử) hoặc tương đương với 64 (nếu là ngũ hường), chọn lấy trong số thẻ còn lại bắt đầu từ thẻ lớn nhất trở xuống; hoặc nhận tất cả số thẻ còn lại nếu giá trị tổng số điểm của những thẻ này ít hơn số điểm mình được hưởng. Trường hợp này có lợi hơn cướp trạng của người trước vì mỗi khi không giữ trạng trong tay thì sẽ không bị ai cướp của mình ngoài trường hợp có người đổ ra lục phú; nhưng lại bất lợi trong trường hợp chơi bảy tay hay tám tay “bán trạng” sẽ nói ở phần sau.

Đấu thẻ
Khi đang cùng một ván, các thẻ nhỏ đã hết sạch, chỉ còn lại thẻ cao điểm nhất là trạng anh mà chờ lâu quá chưa ai đổ ra được, để bớt buồn tẻ sốt ruột, cần gây không khí sôi động hào hứng, người ta bày ra trò đấu thẻ. Những người tham dự cuộc đấu, cùng góp một số thẻ ngang nhau, ai đổ ra nhiều mặt hường nhất sẽ được thắng. Khi có hai người đổ được cùng số hường ngang nhau thì cuộc đấu xem như hòa và cứ tiếp tục cho tới mức ăn thua hoặc nhiều khi còn góp dồn thêm một số thẻ khác nữa gọi là “châm thêm”.

Phạt điểm
Trường hợp 1:
- Người chiếm được trạng anh ở ván trước sẽ đổ đầu tiên mở màn cho ván kế tiếp. Nhưng, nếu rủi ro lần đổ khai màn đó không có mặt hường nào cả thì sẽ bị phạt một điểm bằng một thẻ nhất hường. Lần thứ nhì, thứ ba... nếu cứ tiếp tục không có mặt hường cũng sẽ bị phạt cho đến khi nào đổ ra được mặt hường mới thôi.

Trường hợp 2:
- Khi trạng anh “chưa đi” nghĩa là chưa có ai đổ được, nếu có ai vô ý lúc gieo hột để rơi ra ngoài bát sành, thì cứ mỗi hột bị rơi ra ngoài là bị phạt một điểm bằng một thẻ nhất hường. Những thẻ phạt này sẽ được sung làm hầu cận cho thẻ trạng anh và thay vì 32, điểm của trạng anh sẽ tăng lên thành 33, 34 hay 35..., rồi sau đó ai đổ ra trạng sẽ được lấy tất cả.

Kết toán được thua
Khi tất cả các thẻ đã vào tay người chơi, giữa làng không còn thẻ nào hết, thì ván chơi coi như kết thúc. Mọi người bắt đầu đếm kiểm số điểm của mình, người có thừa sẽ bán bớt, kẻ còn thiếu phải mua thêm, sao cho ai ai cũng phải có đủ số điểm qui định.

Tùy vào số người tham dự, số điểm qui định cần có đủ như sau:

- Hai người: mỗi người phải có 96 điểm, tương đương “ba trạng”.

- Ba người: mỗi người 64 điểm hay “hai trạng”.

- Bốn người: mỗi người 48 điểm hay “một trạng rưỡi”.

- Năm người: mỗi người 38 điểm (tổng cộng năm người: 38 x 5 = 190 điểm) còn thừa 2 điểm (192-190 = 2) không thuộc về ai hết nên người ta giảm bớt 2 thẻ nhất hường trong cuộc chơi này.

- Sáu người: mỗi người 32 điểm hay “một trạng”.

- Bảy người: mỗi người 32 điểm trừ người chiếm được trạng thì không cần phải có điểm nào cả. Trường hợp này gọi là “bảy tay bán trạng”.

- Tám người: mỗi người 32 điểm trừ người giữ được trạng không cần có điểm nào mà còn có quyền bán thêm 32 điểm cho những ai còn thiếu gọi là “bán trạng hai lần”.

Được, thua nhiều hay ít tùy thuộc vào sự giao ước về giá trị mỗi điểm: 1 xu, 5 xu, 10 xu, 25 xu v.v... và tùy theo thời vận đỏ hay đen. Một ván xăm hường đôi khi kéo dài suốt 1 hay 2 giờ mà mức ăn thua chỉ chừng vài đồng bạc. Các cụ ông, cụ bà lúc khỏe thì ngồi ngay ngắn, khi mỏi mệt có thể nghiêng mình thoải mái tựa lên một chiếc gối giữa không khí thân tình của con cháu trong gia đình, bên bà con, cùng bạn hữu...

Hòa với tiếng khánh leng keng trong gió trên đầu ngọn cây nêu dựng bên ngoài cổng hay với tiếng pháo đì đùng từ nhà hàng xóm vọng sang, quyện theo khói trầm hương nghi ngút trên bàn thờ tổ tiên, tiếng vang rộn rã của các hột súc sắc khi được gieo vào lòng chiếc bát sành cùng với tiếng reo hò vui nhộn mỗi khi có ai đổ ra trạng, nhất là khi có người cướp đoạt trạng của kẻ khác, tạo nên một khung cảnh chan hòa ấm cúng thân thương, làm cho không khí những ngày đầu xuân càng thêm thơ mộng.

Đổ Xăm Hường còn có người gọi là Đổ Tam Hường, Đổ Xem Hường hay Đổ Xâm Hường. Trong bốn nhóm chữ đó thì Đổ Xăm Hường đạt được ý nghĩa chính xác nhất. Xăm có nghĩa là quẻ để bói thời vận (ống xăm, thẻ xăm, xin xăm...), Đổ Xăm Hường là môn chơi bói quẻ theo mặt hường để đoán trước thời vận trong năm. Còn Tam Hường chỉ là tên của một trong sáu loại thẻ của toàn bộ, không có ý nghĩa bao quát. Xem Hường lại còn cạn nghĩa hơn. Xâm Hường thì càng tối nghĩa hơn nữa.

Ngày nay khi Tết đến xuân về nơi quê người đất khách, trong cảnh sống tha hương, những thành viên cùng chung một gia đình gồm nhiều thế hệ: ông bà, cha mẹ, con cháu... hay những bạn bè thân thiết, nếu quay quần được bên nhau quanh bộ xăm hường, trước để mua vui sau để thử thời vận, thì cũng là một chuyện hay: vừa cho bản thân có được chút khuây nguôi về nỗi sầu xa xứ, vừa ôn nhớ lại được những kỷ niệm đẹp của thuở nào xa xưa nơi quê hương yêu dấu:
Ngày Tết quê hương một thuở nào,
Mộng tràn tuổi ngọc lắm trăng sao.
Bàn tay em đẹp khi gieo hột,
Hương vị đầu xuân bỗng ngọt ngào.(Thơ Hồ văn Mẫn)



Trần thị Lý, Montréal