Những Tài Hoa Bộc Phát

Vernon Loeb
Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng

 

LTS: Sau đây là bài dịch Những Tài Hoa Bộc Phát - Bursts of Brilliance - đăng trên tờ The Washington Post Magazine,  số ngày 15 tháng 12.

 

Hàng loạt khám phá bởi những kỹ sư và lính Không Quân chưa bao giờ nghe tên đã đưa nước Mỹ đến tột đỉnh về sức mạnh quân sự hiện đại.

Bẩy chục dặm về hướng nam Hà Nội, cầu Thanh Hóa chạy dài qua Sông Mã một cách ngạo nghễ. Những người Miền Bắc Việt Nam có lý khá hay khi gọi nó là Hàm Rồng.  Hàng nhiều năm, những chiếc phản lực cơ của Mỹ đã bay 869 phi vụ bỏ bom chiếc cầu, rớt mất 11 chiếc máy bay. Sau mỗi phi vụ, khi khói đã tan, và chiếc cầu vẫn đứng vững, như một công trình nhắc nhở việc vô hiệu quả của những cuộc bỏ bom trên không. Bẩy năm vô hiệu quả.

Một buổi sáng của tháng 5 năm 1972, những chiếc phản lực cơ lại trở lại: những chiếc F-4 Phantom đua nhau trên bầu trời. Bên dưới những cặp cánh ngắn và dầy đó: một cuộc thử nghiệm, một loại bom mới được chế tạo tại Căn Cứ Không Quân Elgin ở vùng cán cầm (panhandle) của tiểu bang Florida, đã được thiết bị để theo một luồng ánh sáng laser loé lên từ phía bên trên.

Từng chiếc một, những chiếc phản lực lăn xả vào để thả bom. Những trái bom này đã được khóa cứng vào luồng laser rọi trên mục tiêu và đánh trúng thật chính xác, chiếc cầu bọc trong biển lửa. Lần này, khi khói đã tan, các phi công thấy chiếc cầu đã bị đánh văng khỏi cột trụ cầu cao 40 bộ. Cầu Thanh Hóa đã sụp. Bom tinh khôn đã đánh dấu của nó. Chiến tranh sẽ không bao giờ giống như cũ.

Nếu Tổng Thống Bush ra lệnh đánh Iraq trong những tuần, những tháng sắp tới, chỉ trong vòng vài tiếng hệ thống phòng không của Iraq sẽ hầu như chắc chắn bị phá tan trong một khoảng cách thật gần từ những chiếc máy bay vô hình (stealth aircraft) mà quân Iraq không thể thấy, và từ khoảng cách xa bởi những phi đạn vô hình mà họ không thể cản được. Tràng mở đầu sẽ là việc chưa từng xẩy ra, nếu không phải vì khoảng thời gian thì vì sự tàn khốc, khi những trái bom điều khiển bởi các dụng cụ điện tử tinh xảo, liên lạc thẳng tới các vệ tinh, đánh đồng loạt và chính xác vào hàng trăm các mục tiêu khắp nước, từ dinh tổng thống ở Tikrit tới những đoàn quân ở chiến trường gần Basra.

Những chiếc máy bay không người lái (drone) sẽ bay vòng vòng trên các chiến trường gửi liên tục những tín hiệu thám thính tới các vị tư lệnh dưới mặt đất - qua những hình ảnh trực tiếp, radar và tia hồng ngoại tuyến - và tới các phi công trên không, giúp họ theo dõi và tiêu hủy những mục tiêu di động chỉ vài phút sau khi chúng xuất hiện từ chỗ trú ẩn. Bom phá hầm trú sẽ xuyên thủng những nơi bảo vệ kỹ lưỡng nhất của quân Iraq, đâm xuyên sâu tới 100 bộ dưới mặt đất, đâm sầm qua bờ xi măng cốt sắt, nổ tung chính xác ở độ sâu đã được dự trù.

Không một quốc gia nào khác theo gần được sức mạnh quân sự mới này của quân đội Mỹ. Không kể từ năm 1945, khi Hoa Kỳ có một thời gian ngắn ngủi độc tôn về vũ khí hạt nhân, chưa bao giờ có một khoảng cách sức mạnh như vậy giữa Hoa Kỳ các các quốc gia khác trên thế giới.

Bằng các nào chúng ta đã đạt được vị thế này? Không có một chương trình nào giống như Chương Trình Manhattan, khi những người tên tuổi nhất đã tụ lại để dồn tất cả nỗ lực, cùng lúc với sự hỗ trợ đồng nhất và mạnh mẽ của toàn thể chính phủ. Thay vào đó, đơn độc, thường là không được ca ngợi, những cá nhân có đôi giây phút sung sướng khi tìm ra điều mới lạ, đã nối những điểm nổi bật của nền kỹ thuật theo cách bất viễn kiến và đã thay đổi cả thế giới. Mất hàng nhiều năm, với những chứng minh gây ấn tượng sâu sắc gia tăng trên các chiến trường, trước khi những điều gây cảm hứng này được công nhận - một đường lối đánh nhau mới mà làm thay đổi lối tính toán trong chiến tranh và hòa bình theo những phương cách chưa hề xẩy ra trước đây, và hãy còn chưa chắc chắn lắm.

Vào một ngày êm dịu của mùa thu năm 1964, Ðại Tá Không Quân Joe Davis Jr. theo dõi từ một văn phòng của một toà nhà lầu có mái nhà thấp ở Orlando khi các kỹ sư của hãng Martin Marietta, một hãng thầu quốc phòng, biểu thị một vật được gọi là hộp laser. Hộp laser nhìn giống như hai hộp xì gà đặt trên một cái chống 3 chân. Những người kỹ sư rọi cái món đồ chơi điện tử này trên một tấm ván ép đang bị kéo đi theo một con đường dốc cao cách đó khoảng 2000 bộ.

Cái hộp laser này hoàn toàn lấy ra từ Buck Rogers (Tên chính của nhân vật trong một cuốn phim giả tưởng - NPH), thuộc phạm vi của Davis. Ông ta cầm đầu một đơn vị Không Quân tìm kiếm những kỹ thuật mới cho trận chiến ở Việt Nam. Cái hộp laser được khai triển bởi một nhà khoa học của Lục Quân, một người có viễn tượng là một ngày nào đó nó sẽ giúp  hướng dẫn những phi đạn chống chiến xa. Nhưng ông Davis là một phi công, một phi công xuất sắc với nhiều huân chương của Ðệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Ðại Hàn, và khi ông ta theo dõi điểm laser bám dính tâm điểm những mục tiêu di động cách xa đó, đột nhiên nảy ra sáng kiến.

"Boy," (một chữ diễn tả sự ta thán - NPH), ông ta nói, "Chúng ta phải dùng cái hộp laser này để hướng dẫn những trái bom của mình."

Chẳng mấy chốc sau, ông ta trèo vào ghế sau của một chiếc phi cơ huấn luyện bay trở về căn cứ Elgin, một căn cứ lớn bằng khoảng 2/3 tiểu bang Rhode Island, với một khoảng không gian đủ cho một đoàn sĩ quan Không Quân và các nhà khoa học về bom thí nghiệm hầu như bất cứ vật gì được thả ra từ máy bay.

Với một cái máy quay phim trên tay, ông Davis hướng dẫn người phi công bay tới một cái đập nước và bay vòng vòng trên đó. Nếu cái máy quay phim đó là hộp laser, ông ta có thể giữ nó yên một chỗ trên một chiếc máy bay di động để luồng laser bám giữ mục tiêu không?

"Khi chúng tôi trở về, tôi đưa cho phòng rửa phim cuộn phim," ông Davis nhớ lại, "và trời ơi, cái dấu chữ thập nhỏ như sợi tóc ở ngay trên cái đập nước đó."

Ông Davis biết là mình đang trên đường tiến đến một cái gì đây.

Vài tháng sau đó, một người trong ban điều hành của hãng Texas Instruments tên Glenn E. Penisten có mặt tại căn cứ Elgin, với hy vọng bán cho Không Quân một vài kỹ thuật. Ông Penisten nói rằng ông ta có một phi đạn địa không (ground to air missle) có thể được thiết bị để theo một luồng laser. Ông Davis mời ông Penisten và nhóm TI của ông ta ăn tối tại một nhà nhà sang trọng chuyên bán đồ biển và bí tết ở Fort Walton Beach. Qua những đợt sóng và lớp đất cỏ, ông thẳng thắn với họ. Ông nói: "Tôi có vấn đề với việc thả bom". Máy bay Mỹ thả cả hàng tấn bom, nhưng lại không trúng mục tiêu. Có thể có một hộp laser hướng dẫn bom thả từ máy bay không? Sau vài ly rượu, ông Penisten nhớ lại, họ bắt đầu họa chiếc hộp laser đầu tiên hướng dẫn bom trên một tờ giấy lau miệng.

Không bao lâu sau buổi nói chuyện trong bữa ăn đó, nhóm T.I quay trở lại để bàn bạc sâu rộng hơn. Kỹ Sư Weldon Word và nhiều người bạn đồng nghiệp giải thích với ông Davis những gì họ nghĩ trong đầu: một dụng cụ có thể gắn vào những trái bom thường nặng khoảng 500 tới 2000 cân Anh gồm có một cảm cụ (sensor - dùng để đo nhận tín hiệu) laser trên mũi trái bom và trên bộ giữ thăng bằng của máy bay (fin) ngay đuôi bom. Cảm cụ này sẽ có khả năng tìm kiếm luồng ánh sáng phản chiếu của laser trên một mục tiêu.

Tầm phạm vi quan sát của cảm cụ được chia làm bốn góc độ - bất cứ góc độ nào bị kích thích bởi tia laser sẽ chuyển một tín hiệu tới bộ cân bằng ở sau đuôi của trái bom, khiến chúng di chuyển lên hay xuống. Kết quả sự thay đổi phương hướng của trái bom sẽ đẩy luồng laser vào trong một góc độ khác của cảm cụ, gây ra một sự chuyển động khác từ bộ cân bằng ở đuôi trái bom. Kết quả tổng hợp là bất cứ khi nào trái bom đi lạc ra khỏi mục tiêu, bộ cân bằng ở đuôi bom sẽ hoạt động để giữ trái bom đi đúng hướng.

Ông Davis lắng nghe một cách cẩn trọng. Lúc đó là trưa thứ Sáu. Ông nói với họ là nếu sáng thứ Hai họ có thể đưa ra một bản kế hoạch đề xuất và dưới $100,000.00, "Tôi sẽ tài trợ cho các ông".

Nghe như thế, ông Word và nhóm kỹ sư T.I bay trở về lại Dallas, làm việc nguyên cả cuối tuần và quay trở lại sáng thứ Hai với 12 trang giấy, một bản kế hoạch đề xuất viết tay kiến tạo 12 hộp laser hướng dẫn bom trong vòng 6 tháng với giá $99,000.00. Ông Davis xem bản kế hoạch đề xuất xong, nói với ông Word và người bạn đồng nghiệp của ông Word trở lại sau giờ ăn trưa.

Ông Word và người bạn đồng nghiệp không biết phải kỳ vọng vào cái gì. "Trong đó, 98 phần trăm là nước bọt, và 2 phần trăm là thật", theo lời kể của ông Word, 71 tuổi, giờ đã về hưu và đang sống ở Tyler, Texas. Họ đã kiệt sức và rã rời vì làm việc. Họ mua 6 lon bia và nằm ngủ trên bãi biển ngoài căn cứ.

Họ cần nghỉ ngơi. Thay vì cho họ toàn bộ hợp đồng, các xếp của ông Davis về văn phòng Nghiên Cứu và Phát Triển của Căn Cứ Không Quân Wright Patterson ở Ohio đã đưa vào một nhà thầu quốc phòng khác nữa, hãng North American Aviation, và tạo một cuộc ganh đua. Tuy nhiên đó mới chỉ là một phần của vấn đề. Ông Word và hãng của mình không có một tý kinh nghiệm gì về laser, và chỉ có một ý tưởng lờ mờ về cách kiến tạo một cảm cụ laser. Thêm vào đó, họ không cả biết bộ cân bằng ở đuôi trong bản kế hoạch đề xuất của họ, được lấy từ phi đạn Shrike của hãng T.I, có thể điều khiển và cân bằng một vật nặng như là trái bom 2000 cân Anh hay không.

Thiếu tiền để thử thí nghiệm trong hầm gió, họ kiến tạo những trái bom kiểu mẫu nhỏ 10 phân Anh có gắn bộ cân bằng và thả chúng xuống một cái hồ bơi sau nhà, chăm chú ghi chép khi chúng chìm.

Không một ai, chỉ một mình ông Davis có nhiều tin tưởng vào sáng kiến này. Ông Penister còn nhớ chính ông xếp của ông ta đánh cá với ông một thùng rượu Jack Daniel's rằng bom định hướng bởi tia laser sẽ không bao giờ thành công. Tuy thế chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, nó đã được gắn tất cả với nhau thành 1 dụng cụ với giá ít hơn $2000.00 đô một cái. Họ chỉ cần một trái bom thật để gắn nó lên. Ông Penisten đã gọi dây nói cho ông Davis. Ông Davis cho khiêng một quả bom không thuốc nổ vào khoang chở của chiếc máy bay C-47 và chở nó đến Dallas. Ông Word hãy còn nhớ cái ngày mà trái bom được chở đến tổng hành dinh của hãng. "Thình lình mọi người rỉ tai truyền khắp cao ốc - Có một trái bom ở chỗ rỡ hàng đàng sau!"

Ông Davis bi giờ được 85 tuổi, một người đàn ông thấp, bệ vệ với một mái tóc bạc và một làn da sạm nắng giống như da bò. Ông sống cách cổng chính của căn cứ Elgin khoảng 1 dặm rưỡi với người vợ tên Ann. Ban ngày ông ta đánh goft. Ông chơi dưới 90 điểm. Ông hãy còn bay chiếc máy bay Beechcraft một động cơ khoảng 40 tới 60 tiếng mỗi tháng. Và mỗi lần ông thấy một chiếc F-15 đâm xuyên qua bầu khí quyển trên căn cứ, ông thầm ao ước mình là người đang bay chiếc máy bay đó.

Ông chưa bao giờ được hưởng công nhiều hay tuyên dương cho mình là người tiên phong trong việc sáng chế bom hướng dẫn bởi tia laser. Những người xếp lớn Không Quân ở Wright Patterson, theo ông, "muốn giữ tiếng tăm ở trên đó, và tôi không muốn hơn thua với họ". Khi ông về hưu, ông được trao huy chương Legion of Merit cho sự đóng góp của mình về bom tinh khôn - một sự tuyên dương nhỏ bé hơn mà người chỉ huy của ông đã đề nghị cho ông. Khi chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư chuyển biến năm 1991 và ông Davis thấy hoàn toàn việc canh tân của mình, ông đã kinh ngạc - và một chút sợ hãi.

"Ðây là những điều mà ông phải lo lắng - trái bom laser đó rơi xuống và gây tử vong cho một hay hai gia đình, và tên đó biết ai là người sáng chế ra laser bom, 'Ô, hắn đi xuống Florida,' " ông Davis nói, "Hắn xuống đây kiếm tôi, và để một viên xuyên qua đầu tôi."

Vì thế ông Davis giữ im lặng trong suốt những năm vừa qua, ngay cho dù sự thật là những cuộc không tập chuẩn đích - đã khiến cuộc chiến lẹ hơn và giới hạn những tổn thất thương vong thường dân - mà người ta có thể cho rằng đã cứu hàng ngàn sinh mạng thường dân và lính tráng.

Khi cuộc thử nghiệm bắt đầu năm 1966, chiếc mẫu đầu tiên của T.I rớt xa mục tiêu 148 bộ (feet) . Trái thứ hai cách xa 78 bộ, gấp đôi 30 bộ chính xác mà hãng T.I đã cam kết. Cuối cùng thì có một vài điều sai trong cảm cụ, bộ cân bằng, và hệ thống điện tử. Sau khi tất cả được hoàn chỉnh, mức độ chính xác của bom được cải tiến kinh khủng. Lần thả thứ năm, nó rơi cách mục tiêu 12 bộ. Tới lần thứ sáu, nó trật cách 10 bộ.

Hãng cạnh tranh với T.I - hãng North American - không cả được như thế. Họ dùng hệ thống hướng dẫn phức tạp hơn thế, nhưng bị thất bại hàng loạt trong bốn lần ném bom đầu tiên. Và giá tiền mắc hơn dụng cụ tương đối đơn giản của hãng T.I đến nỗi hãng North American không cả đủ tiền để làm tiếp những chiếc kiểu mẫu.

Vào tháng 5 năm 1967, hãng T.I được hợp đồng $1.35 triệu đô để kiến tạo thêm 50 bộ dụng cụ cho những trái bom trong việc tiếp tục thử nghiệm. Ngoài sự thành công về khoảng cách trong những cuộc thử nghiệm, chương trình được thúc đẩy vì những tổn thất máy bay nặng nề ở Việt Nam. Trong khi ông ta và những kỹ sư khác làm việc để hoàn thiện trái bom, ông Word nhớ rằng ông thấy một bức hình của chiếc Cầu Thanh Hóa đứng nguyên vẹn giữa hàng trăm hố bom ở hai bên giòng sông.

Vào mùa xuân năm 1968, ông Davis và toán phi công bay thử nghiệm, và các kỹ sư đã bay từ Elgin tới Thái Lan để thử những trái bom trong những trận chiến thật sự. Cuộc ném bom lần đầu trên chiếc cầu Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn thất bại - những trái bom hoàn toàn trật mục tiêu.

Vào thời đó, họ cần có hai chiếc máy bay để thả một trái bom laser định hướng. Một người sĩ quan vũ khí ngồi đàng sau chiếc F-4 Phantom cầm tay một chiếc laser để rọi mục tiêu, giống như ông Davis đã cầm chiếc máy quay phim để rọi đập nước. Và một chiếc Phantom thứ hai thả trái bom laser định hướng theo đường là là khiến các cảm cụ của nó có thể nhận được điểm laser. Một cuộc tường trình tỉ mỉ của cả hai nhóm phi công đã đưa đến điều xác quyết là một nhóm đã rọi luồng laser trên chiếc cầu, và nhóm kia đã nhắm thả trái bom trên một chiếc cầu khác cách đó 3000 bộ.

Khi các viên phi công đã đồng thuận trên mục tiêu, những trái bom bắt đầu hoàn thành một cách ngoạn mục. Chúng tạm thời được dùng để phá những chiếc cầu và những mục tiêu khác có giá trị cao trước khi Tổng Thống Lyndon Johnson ban hành sắc quyết năm 1968 ném bom Miền Bắc Việt Nam. Sau đó, chúng được dùng ở Lào để phá cầu và các đường vào hang động trú ẩn. Vào khoảng thời gian sắc lệnh được bãi bỏ năm 1972 và cầu Thanh Hóa đã bị sụp đổ, cảm hứng của ông Davis đã chính thức trở thành bom laser định hướng Paveway, với một kiểu mới hơn và chính xác hơn vì đặc biệt có cảm cụ tia laser được cải tiến và bộ cân bằng sau đuôi được bật ra. Trong khi đó, sự tiến bộ đã cho phép một chiếc phản lực cơ làm cả hai việc một lúc là rọi mục tiêu và thả bom.

Vào lúc cuối của cuộc chiến năm 1975, Hoa Kỳ đã thả hơn 28.000 trái bom Pavewave ở Ðông Nam Á. Vũ khí laser định hướng dùng ít hơn 1% của tổng số 3,3 triệu trái bom đã thả xuống suốt cuộc chiến. Song le, chúng đã chứng tỏ khả năng chính xác trên các chiến trường đến độ lạnh mình.

Công chúng Hoa Kỳ, mệt mỏi với cuộc chiến không ngưng nghỉ, để ý một cách qua loa. Nhưng sự thành công của những quả bom laser định hướng và các kiểu trước đó của những trái bom tinh khôn được hướng dẫn bởi máy thu hình và cảm cụ qua tia hồng ngoại đã gây một ấn tượng sâu đậm trong giới quân sự Hoa Kỳ, để đề xuất những chương trình hoàn thiện cả ba.

Theo nhà sử học của Không Quân Richard P. Hallion thì: "Nó như là một cuộc cách mạng, một cuộc phát triển sức mạnh trên không giống như là máy phản lực."

 

o0o

 

William J. Perry hiểu những ẩn ý rõ như bất cứ người nào. Là một cựu giáo sư đại học với văn bằng tiến sĩ Toán, ông Perry trở thành thứ trưởng Bộ Quốc Phòng lo về nghiên cứu và ngành kỹ sư - là nhân vật số 3 của Ngũ Giác Ðài - năm 1977 vào thời gian đầu nội các của ông Carter.

Sự lạnh lẽo sâu đậm của Chiến Tranh Lạnh, và  hàng rào duy nhất chống lại số vũ khí thường to tát nhiều lợi thế của Liên Bang Sô Viết là khả năng nguyên tử của Mỹ. Ðiều này cho thấy đã đưa một viễn tượng không an tâm về Sô Viết, đẩy Tây Âu vào thế mà Tây Phương chỉ có 2 sự lựa chọn tồi tệ: Thua trận hay chiến tranh nguyên tử.

Lúc này ông Perry tưởng tượng ra một sự lựa chọn thứ ba: Hoa Kỳ xây cất một kỹ thuật siêu việt, đặc biệt là ngành điện toán, để sáng tạo một cuộc chiến tranh hoàn toàn mới với vũ khí thường. Ông nhớ đã bàn thảo điều này với ông xếp của mình, Bộ Trưởng Quốc Phòng Harold Brown, một nhà vật lý nguyên tử, chỉ trong vòng 6 tháng khi nhậm chức. Cùng với nhau, họ quyết định lợi thế của Sô Viết về vũ khí thường có thể được chống lại bởi sự chính xác của đạn dược, kỹ năng điện toán của Hoa Kỳ và một kỹ thuật tối mật được mệnh danh là "tàng hình (stealth)" đã có thể biến máy bay Hoa Kỳ hầu như trở nên vô hình với lực phòng thủ không phận của Sô Viết.

Hãy còn đau bởi vết thương sau cuộc chiến Việt Nam, Ngũ Giác Ðài âm thầm tái vũ trang khi ông Perry tới nhậm chức. Ông Perry đã tự chính mình nuôi dưỡng những thành phần kỹ thuật cao, mặc dù có một sự chống đối kịch liệt của một nhóm chỉ trích được biết lúc đó qua tên "phong trào cải cách quốc phòng". Họ lý luận rằng Ngũ Giác Ðài đã bị ám ảnh với những vũ khí có kỹ thuật cao, quá tốn kém, không cả biết có hoạt động được hay không và, phần nhiều, vô hiệu quả trên chiến trường.

Ông Perry nhất định không nhượng bộ - và ủy thác những số tiền lớn lao vào một phần ngân sách mật để chế tạo chiếc chiến đấu cơ tàng hình (stealth fighter) F-117. "Tàng Hình, đặc biệt, đã trên đường tiến nhanh không thể tưởng," ông Perry thuật lại, giờ đã 75 tuổi, một người đàn ông gầy gầy, với mái tóc bạc và mỏng. Ông ta với một sự thoả mãn rõ ràng cho biết chiếc máy bay tối mật được chế chỉ trong vòng 4 năm.

Cả hai chiếc F-117 và chiếc tàng hình B-2 thả bom, chiếc này cũng bắt đầu dưới thời ông Perry, có dạng hình chế tạo giống như chiếc boomerang đã làm lệch hướng và phân tán những làn sóng radar, thay vì phản chiếu lại tới máy phát sóng của chúng nó. Chiếc máy bay được cấu tạo bởi chất liệu giống như than hút giữ làn sóng radar và làm giảm "diện tích radar" - là khoảng phạm vi mà chiếc máy bay có thể thấy trên màn ảnh radar - tới độ nhỏ như của một con chim.

Thế giới không được thấy sự hoạt động của những vũ khí này cho tới những ngày mở màn của trận chiến tranh vùng Vịnh. Nhưng ông Perry đã nhìn thấy khả năng của chúng cả thập kỷ trước đó, tiên đoán một cách tự tin trong một cuộc phỏngvấn tháng Ba năm 1980 rằng loại vũ khí mới và chính xác này "phải làm thay đổi bộ mặt của trận chiến".

Ở căn cứ Elgin, ông Donald Lamberson, một vị phó chỉ huy của Ðoàn vũ trang của Không Quân, đã đi theo đường hướng của ông Davis, cố gắng thuyết phục toàn thể khối Không Quân về những kỹ thuật mới nhất của bom tinh khôn. Mặc dù được sự ủng hộ của ông Perry và sự thành công của bom laser định hướng ở Việt Nam, ông Lamberson thấy nó tiến triển một cách chậm chạp.

"Chúng ta bay những chiếc máy bay tuyệt vời, và chúng ta thả những trái bom từ thời Ðệ Nhị Thế Chiến qua những chiếc máy bay này.", ông Lamberson kể, giờ đã 71 tuổi.

Những viên phi công chiến đấu chỉ huy bộ Tư Lệnh Sách Lược Không Quân (Tactical Air Command), theo ông, đã chú trọng vào việc không chiến (air to air combat) và hãy còn nghi ngờ phần nào về sự mạo hiểm mà các phi công chiến đấu phải bay thấp để thả những trái bom laser định hướng. Và những phi công thả bom xa tầm, chỉ huy bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command), theo ông, lại càng ít để ý đến việc chính xác hơn. Một điều, và chỉ một điều, ông nói, đã cuối cùng thuyết phục được giới Không Quân, nếu không phải là cả thế giới, là một phương cách chiến tranh mới trong tầm tay: Cuộc Hành Quân Bão Sa Mạc (Operation Desert Storm).

Một buổi sáng sớm trời còn tối đen, chiếc trực thăng võ trang Apache ôm tròn trái đất đã bắn phi đạn laser định hướng Hellfire và hỏa tiễn Hydra vào giàn radar báo động của quân Iraq. Lúc đó là ngày 17 tháng Giêng năm 1991. Chiến Trang Vùng Vịnh đã bắt đầu.

Vài phút sau đó, chiếc F-117 chiếc đấu cơ tàng hình bắt đầu tấn công những nơi phòng không dầy đặc và những cơ sở chỉ huy ở Baghdad bằng các loại vũ khí chính xác, không bị phát hiện bởi sự phòng thủ không phận dầy đặc gấp 7 lần những nơi xung quanh Hà Nội khi Hoa Kỳ lần đầu tiên sử dụng bom laser định hướng ở Việt Nam.

"Vào lúc bình minh vừa tỏ vào sáng 17 tháng 1," ông Hallion viết trong cuốn lịch sử chiến tranh của ông ta, Bão Qua Nước Iraq (Storm Over Iraq), " Iraq chắc chắn đang ở trên con đường bại trận..."

Hoa Kỳ đã sử dụng những trái bom tinh khôn của mình qua một cách hoàn toàn mới lạ, không  những chỉ thả với một số lượng lớn trên những chiếc cầu khó đổ, mà dùng chúng để tạo nên điều mà ông Hallion gọi "một sự đánh sụp đồng lúc, nếu mình muốn, trên toàn nước."

Năm 1994, khi 47 chiếc B-29 đánh phá xưởng sắt Yawata của Nhật trong Ðệ Nhị Thế Chiến, ông Hallion kể, "chỉ có mỗi một chiếc máy bay đã đánh trúng mục tiêu, và chỉ đánh trúng được được 1 trái bom trong từng đó trái bom." Trong tối mở màn của trận Chiến Tranh Vùng Vịnh, theo bản so sánh, một chiếc F-117 đơn độc mang 2 trái bom laser định hướng đã tạo ra hậu quả tàn phá gấp 2 lần của nguyên cả một phi đoàn.

Chỉ có khoảng 9% của số bom được thả xuống trong trận Chiến Tranh Vùng Vịnh - 7.400 tấn trong 84.200 tấn bom - là những trái bom thuộc loại được hướng dẫn chính xác, phần lớn do sự giới hạn không có nhiều trong kho dự trữ. Nhưng với 9% đó đã đảm trách cho 75% thiệt hại tới những mục tiêu chiến lược. "Rõ ràng với mọi người là công của những trái bom đó." theo lời của tướng hồi hưu Merrill "Tony" McPeak, Tham Mưu Trưởng Không Quân lúc đó.

Cuộc chiến trên không mất 37 ngày và nhanh chóng chuyển từ những mục tiêu chiếc lược xung quan Baghdad qua những đoàn quân Iraq và chiến xa khắp nơi trong nước. Chiến đấu cơ thả bom F-111F đã chứng tỏ sự hữu dụng tiêu hủy chiến xa bằng những trái bom laser định hướng. Trong đêm tối lạnh lẽo của sa mạc, nhiệt từ những đầu máy của chiến xa nhìn sáng rực qua các cảm cụ mục tiêu bằng tia hồng ngoại tuyến hiện đại dùng trên những chiếc phản lực.

Thời gian ngắn sau cuộc chiến, ông McPeak tuyên bố cuộc Hành Quân Bão Sa Mạc là "lần đầu tiên trong lịch sử mà môt. đoàn quân trên bộ đã bị đánh bại bởi không lực."

Những vị chỉ huy của Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến bất đồng ý kiến một cách mạnh mẽ, lý luận rằng lực lượng trên bộ - không phải không lực - đã đánh bại quân đội Iraq. Thực vậy, Darul G. Press, môt. giáo sư của trường đại học Dartmouth, biện luận trong một bài viết rằng không lực "làm giảm và phá vỡ quân đội Iraq", nhưng "đã không vô hiệu hóa lực lượng Iraq."

Ông McPeak gạt bỏ những lời lý luận đó của ông Press và những người khác, và còn đi xa hơn thế bi giờ. "Càng ngày càng rõ là không lực bắt đầu giữ lời hứa là họ đã có từ lâu, đó là vai trò chính, và những vai trò khác là phụ thuộc và yểm trợ," ông ta nói. "Sự thật là sự thật."

Tuy nhiên ngay trong trận Bão Sa Mạc, không lực đã rõ ràng có sự giới hạn và khiến những nhà hoạch định trận chiến, các quan chức, kỹ sư và khoa học gia phải đi tìm những loại vũ khí mới và cải tiến những dữ kiện chiến sự trong suốt thập niên 90. Không Quân và Hải Quân đã thất bại trong việc không tiêu hủy  được 1 cái dàn phóng phi đạn Scud nào của Iraq mặc dù đã dồn nhiều nỗ lực: Hoa Kỳ một cách đơn giản đã không thể nào đánh trúng những mục tiêu di động đúng lúc.

Một vấn đề lớn khác: Lối chiến tranh mới qua sự chuẩn xác của Hoa Kỳ, đã bị tê liệt bởi thời tiết xấu. Không lực của Saddam Hussein, không cất cánh nổi trong suốt cuộc chiến, đã không thể ngăn chận được những phản lực cơ thả bom laser định hướng của Hoa Kỳ, nhưng những đám mây lại có thể làm được điều này.

Thật ra, đã có một kỹ thuật có thể điều khiển những quả bom qua đám mây mù dầy đặc - kỹ thuật này đã bị phớt lờ.

Louis R. Cerrato bắt đầu làm việc tại căn cứ Không Quân Elgin cách đây một phần tư thế kỷ trong văn phòng mệnh danh là Kế Hoạch Phát Triển. Nó giống y như là đơn vị mà ông Joe Davis cầm đầu khoảng 10 năm trước đó, họa kiểu để tìm những kỹ thuật mới cho bom. "Anh nói ra nhiều ý kiến, và đôi khi có ý kiến được giữ," theo lời ông Cerrato, giờ đã được 58 tuổi, một người với quần áo nhầu nát, hàm râu rậm, trán sói, tóc bạc và đeo cặp kính gọng sắt.

Không giống như ông Davis, ông Cerrato là một kỹ sư với văn bằng tiến sĩ. Vì thế, năm 1985, khi vị trưởng khoa học của căn cứ Elgin chuyển một bài nghiên cứu tới văn phòng Kế Hoạch Phát Triển về bom quán tính (inertial) định hướng - những trái bom, chẳng nhiều thì ít, dùng lực hút của trái đất và gia tốc để "cảm" đường đi đến mục tiêu - đã gợi trí tò mò của ông Cerrato. Mặc dù thiếu sự chính xác như của bom laser định hướng, trái bom với một hệ thống quán tính định hướng đã có thể rơi cách mục tiêu khoảng 30 thước. Với 1 trái bom nặng 2.000 cân Anh, bán kính công phá xa 250 thước, điều đó thì quá gần để gây thiệt hại nặng nề đến các kiến trúc và nhân mạng.

Ông Cerrato hình dung một trái bom có máy điện toán đã được thảo chương tọa độ của  mục tiêu - nơi tới của nó. Máy điện toán của trái bom cũng sẽ nhận tín hiệu, ngay trước khi nó được thả, cập nhật hóa chính xác tọa độ của máy bay, nơi khởi xuất của nó. Một khi trái bom đã được thả, bộ quay hồi chuyển (gyroscope) sẽ đo góc động lượng (angular moment) của trái bom, đồng hồ gia tốc sẽ đo vận tốc tăng hay giảm, và một máy điện toán sẽ kết hợp tất cả các dữ kiện với nhau. Vì thế, trái bom lúc nào cũng sẽ biết vị trí của nó và nơi nào để đi đến, và máy điện toán sẽ tính để điều chỉnh đường trong lúc bay, hướng trái bom đến mục tiêu.

Ông Cerrato tin rằng bộ phận này có thể sản xuất và gắn vào những trái bom "ngu" thường, giống như là bộ phận laser gắn vào bom, nhưng với một giá rẻ hơn. Tuy nhiên, đối với ông Cerrato thì có nhiều lợi điểm của bom quán tính định hướng: Nó có thể hoạt động trong mọi trường hợp thời tiết. Và nó có thể được chở trên một chiếc máy bay nhưng lại đánh phá được nhiều mục tiêu - rất chính xác, vì mỗi trái bom đã được cài thảo chương trước đó với những tọa độ của các mục tiêu mà nó được trù đánh phá.

Song le, giống như những nhà viễn kiến, ông Cerrato đã đi trước thời gian. Ông chẳng mấy chốc đã thấy sự tỉnh bơ mà ông Lambert đã bị trước đó. Trái bom của ông ta chìm dần vào quên lãng vì không có tiền để phát triển nó thêm.

Tuy nhiên, khi Chiến Tranh Vùng Vịnh chấm dứt vào mùa xuân năm 1991, ông McPeak viết vội một bức thư bằng tay gửi tới những người chế bom tinh khôn ở căn cứ Elgin: "Chúng ta cần những trái bom định hướng chính xác dưới mọi thời tiết." Và ông ta cần chúng với giá rẻ, để tránh tình trạng thiếu bom tồn kho một cách nhanh chóng vì vụ Iraq.

Cám ơn ông Cerrato, chẳng phải mất nhiều thời gian. Một loại bom mới đã được ra đời, một cuộc cách mạng về cách hoạt động và giá cả của nó. Ðược gọi là Ðạn Dược Hỗn Hợp Công Phá Trực Tiếp (Joint Direct Attack Munition - JDAM) và đọc là "Jay-dam" bởi những nhân viên ở Ngũ Giác Ðài, nó được dự định để trở thành như loại Ford Mustang hoang dại nổi tiếng của loại bom tinh khôn.

Ông Terry Little, thuộc típ người ngang tàng được đưa vào để coi sóc chương trình này, đã nhớ lại buổi tường trình tới ông McPeak về khái niệm loại bom mọi thời tiết của ông Cerrato, đã phát triển với giá khoảng $60.000 đô một trái. Khi ông McPeak hỏi ông là mục tiêu của giá cả là bao nhiêu - hăng say để làm vui lòng xếp của mình - ông đã bớt đi một phần ba giá cả và nói $40.000 đô. "Tôi giả giá," ông cười khúc khích công nhận. "Và ông McPeak nói, 'Ðó không phải là mục tiêu của ông, đó là mức tối đa của ông.' Và đó là bước ngoặt của chương trình."

Một thúc đẩy khác đến từ sự hội nhập kỹ thuật. Kể từ năm 1957, Khi Liên Bang Sô Viết phóng Spunik, vệ tinh đầu tiên do con người chế tạo, các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã nhận thức được rằng vệ tinh có thể trở thành những kỹ thuật cao tiếp trợ cho việc định phương hướng. Năm 1973, một đầu não của Ngũ Giác Ðài đã làm việc nguyên cuối tuần lễ ngày Lao Ðộng trong văn phòng để thiết trù một họa đồ tiếp trợ cho việc định hướng: Hệ thống Navstar Global Positioning System, hay còn được biết là GPS.

Hệ thống bao gồm 24 vệ tinh bay trong quỹ đạo 12.660 dặm của trái đất trong không gian. Những vệ tinh gửi tín hiệu radio đến bộ thu sóng của GPS, nơi đây sẽ tính mất bao lâu tín hiệu mới nhận được, và nhờ vậy sẽ biết nó cách vệ tinh bao xa. Với 24 vệ tinh trong quỹ đạo, ít nhất là 4 cái, thông thường là 8 cái,  ở trên chân trời và lúc nào cũng trong khoảng cách của một máy thu sóng. Mỗi máy thu sóng cần tín hiệu từ 4 vệ tinh để tính kinh độ, vĩ độ và tung độ.

Ðược xem là một sự canh tân quan trọng bậc nhất thuộc lãnh vực điều khiển và chế ngự của quân đội từ thuở Telegraph tới giờ, GPS đã bắt đầu kỷ nguyên trên trận chiến trong suốt Chiến Tranh Vùng Vịnh, hướng dẫn những phi đạn phóng trên không và đã giúp những đơn vị thiết giáp và những đoàn quân với các máy thu sóng cầm tay biết chính xác vị trí mình đang ở nơi đâu trong sa mạc.

Ông Cerrato và các bạn đồng nghiệp của mình ở căn cứ Elgin đã thấy một cơ hội để hoàn chỉnh một trong những yếu điểm nhất của bom quán tính định hướng - sự dễ bị trồi lạc đã khiến hệ thống quán tính định hướng không chính xác bằng bom laser định hướng. Với một JDAM mới, hệ thống quán tính của trái bom hãy còn dùng để hướng dẫn trái bom, nhưng nó cũng sẽ bao gồm một máy thu sóng GPS được cập nhật hóa mỗi giây để chỉnh lại độ trồi lạc. Máy điện toán của trái bom, dùng cùng một con "chip" của máy điện toán Apple, hội nhập các dữ kiện của GPS chung với các dữ kiện của hệ thống định hướng để cải thiện độ chính xác lên tới 13 thước hay ít hơn.

Giá sản xuất cuối cùng của JDAM dưới mức $20.000 đô, nhờ vào mức độ sử dụng bên ngoài với tính cách thương mại và những bộ phận bán cho công chúng (off-the shelf - tức những vật dụng được các hãng xưởng kiến tạo bán cho công chúng, vì sản xuất hàng loạt nên giá cả rẻ hơn và không đòi hỏi tiêu chuẩn chế biến cao, khó khăn như như các vật dụng của quân đội hay chính phủ - Nguyễn Phượng Hoàng) - công ty sản xuất bộ cân bằng sau đuôi bom cũng chính là công ty sản xuất những bộ phận cho máy cắt cỏ Toro.

Xung khắc với JDAM thì hãy còn là khoảng ngân sách tương đương như thả chiếc xe hơi Toyota Camry xuống lực lượng quân địch. Nhưng so sánh với những phi đạn hàng triệu đô la và những trái bom laser định hướng mới nhất, với giá khoảng $60.000 đô 1 trái, the JDAM, ít ra là đối với Ngũ Giác Ðài, hãy còn rẻ kinh khủng.

Năm 1999, trong suốt trận không chiến 78 ngày của khối NATO ở Seberia, khi thời tiết xấu gây cản trở việc sử dụng bom laser định hướng để phá chiếc Cầu Zezeljev bắt ngang dòng sông Danube ở Novi Sad, chiếc cầu đã bị phá bởi hàng loạt JDAM.

Cuộc tấn công đã làm mở mắt con người. Loại bom mới đã không có độ chính xác của vũ khí laser định hướng. Nhưng chúng đủ chính xác - và chúng, đúng ra, càng ngày càng khá hơn. Mức độ chính xác của JDAM bây giờ đã xuống từ 13 thước tới khoảng cách từ 4 tới 6 thước, nó càng cải tiến với độ chính xác của GPS.

Ngay cho dù trong chiến thắng, chiến dịch trên không đã cho thấy những khuyết điểm đang có. Máy bay bỏ bom B-2 đã gây tổn hại nặng nề cho tòa đại sứ Trung Hoa ở Belgrade với 5 trái bom DJAM, đánh trúng mục tiêu một cách chính xác. Vấn đề duy nhất là tình báo đã sai lầm - những nhà hoạch định chiến trường Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đang nhắm mục tiêu một cơ quan quân đội của Yugoslav và đã lầm lẫn đánh toà đại sứ.

Cuộc tấn công thảm khốc đã giết 3 nhân viên sứ quán và gây thiệt hại nghiêm trọng tới nền ngoại giao Hoa Kỳ - Trung Hoa, cho thấy sự phụ thuộc của cuộc không tập chính xác vào tình báo hay - và sự sai lầm đến thế nào của tình báo Hoa Kỳ có thể gây ra.

 

o0o

 

Từ trên cao bãi chiến trường ở Afghanistan, một người chỉ huy của Liên Minh Bắc Phương theo dõi những lực lượng Taliban di chuyển trong một thung lũng bên dưới. Ðể tiến, ông ta cần đoàn quân địch và những đoàn xe bị đánh từ trên không trung trong vòng 24 tiếng. Lúc đó là tháng 11 năm 2001, Hoa Kỳ đánh từ trên không nguyên một tháng không ngừng nghỉ trong trận chiến với khủng bố.

Những toán quân của Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ, được đưa vào bãi chiến để chỉ định những mục tiêu cho các lực lượng Liên Minh Bắc Phương, chuyển sự yêu cầu của vị chỉ huy qua vệ tinh tới bộ tư lệnh của Hoa Kỳ ở Saudi Arabia. Bộ chỉ huy nói chuyện một chiếc máy bay bỏ bom B-52 và để các phi công liên lạc với toán quân của Lực Lượng Ðặc Biệt bên dưới. Những người lính đó chiếu một tia laser từ máy chỉ định về phía toán quân Taliban để chắc chắn vị trí của họ. Rồi họ cắm máy chỉ định vào một máy thu sóng GPD mang tay để có được tọa độ của GPS và chuyển tọa độ lại chiếc máy bay qua làn sóng radio.

JDAM bắt đầu rơi trên đám quân Taliban trong vòng khoảng 20 phút yêu cầu của vị chỉ huy Liên Minh Bắc Phương. Sự kết hợp giữa điềm chỉ viên của Lực Lượng Ðặc Biệt trên đất và loại bom mới trên không trung đã khiến chiếc B-52 ì ạch, một loại máy bay được chế từ thập niên 50, bay như một truyền thống đã định là một trong những phi vụ được đòi hỏi nhất trên chiến trường - cung cấp "yểm trợ sát trên không" cho những toán quân dưới đất.

Các phi công Hoa Kỳ đã thả hơn 5000 trái JDAM ở Afghanistan, vào khoảng một nửa số tồn kho ban đầu. Việc sử dụng bom đã trở nên rộng rãi đến nỗi làm phát lo những nhà hoạch định chiến trường ở Ngũ Giác Ðài khiến họ phải nói hãng Boeing, nhà sản xuất bom, gia tăng việc sản xuất. Thay vì 82.000 trái bom, bây giờ họ muốn Boeing làm 230.000 trái.

Tuy là với JDAM và việc dàn trận đầy đủ với bom laser định hướng trong tay, mặt trận mới của cuộc cách mạng chuẩn xác ở Afghanistan hoàn toàn về tài liệu thông tin; nhập chung các dữ kiện từ hàng loạt cảm cụ và đưa nó hầu như tức khắc tới các phi công đang chờ đợi để đánh. "Cảm cụ" tối tân nhất trong tất cả là con người dưới mặt đất, những toán Lực Lượng Ðặc Biệt có khả năng không chỉ những phân biệt được chiếc xe SUV với chiếc xe chở học sinh mà còn biết ai ở bên trong mỗi chiếc xe đó.

Song le, ngay cho dù những điềm chỉ viên Mỹ dưới đất cung cấp những dữ kiện quý giá, cuộc chiến trên không ở Afghan đã cho thấy một tương lai khi con người trên bãi chiến sẽ không còn là cần thiết. Máy bay thám thính không người lái Predator - máy bay được điều khiển từ xa trang bị với máy video, hồng ngoại tuyến và các cảm cụ radar và vũ trang bằng những phi đạn laser định hướng Hellfire - nhận diện các mục tiêu và bắn phá chúng. Các cảm cụ và người bắn trở thành một và cùng trong một lúc.

Máy bay Predator có thể lấn ná lâu khoảng 20 tiếng trên một bãi chiến ở cao độ 25.000 bộ Anh, bắn  những luồng tài liệu thông tin xuống cho các vị chỉ huy dưới mặt đất - hay trực tiếp thẳng tới các máy bay khác. Những người điều khiển dưới đất, bên kia nửa quả đất bay chiếc máy bay bằng dụng cụ điều khiển từ xa, qua sự chuyển tín hiệu lên các vệ tinh: Thay vì nhìn qua cửa sổ trong buồng lái, một người "phi công" của máy bay Predator và hai nhân viên điều khiển cảm cụ nhìn trên hàng loạt các hình ảnh được chuyển về bởi máy bay. Predator đã được nhập chung ở Afghanistan với một chiếc máy bay cao độ không người lái Global Hawk, chiếc này có thể bay cao hơn (65.000 bộ Anh) và lâu hơn (24 tiếng) .

Ở vào lúc bắt đầu của trận chiến với khủng bố, Tướng John P. Jumper, Tham Mưu Trưởng Không Quân, đã ra lệnh một nhóm nghiên cứu điều tra xem có thể chuyển những tín hiệu của mục tiêu từ Predator thẳng tới chiếc AC-130 Spectre vũ trang. là một trong những loại vũ khí kinh sợ nhất chống lại những mục tiêu di động trong kho của Không Quân, chiếc AC-130 được trang bị với ba súng cà nông cạnh hông, gồm cả một khẩu 25 mm Gatling có thể bắn 1.800 viên trong 1 phút. Hai tháng sau khi ông Jumper ra lệnh, phi hành đoàn của chiếc AC-130 đã theo dõi những hình ảnh của Predator chuyển, về những mục tiêu trước khi họ bay vào khoảng tầm bắn.

Tháng 11 vừa qua, cho thí dụ, những viên chỉ huy ở trung tâm hành quân không quân ở Saudi Arabia nhận tin tình báo về một cuộc họp đang diễn ra của những người cầm đầu Taliban và Qaeda. Họ gửi một chiếc Predator tới vùng tổng quát nơi mà cuộc họp mặt đang diễn ra. Chẳng mấy chốc sau, radar của máy bay đã thấy một đoàn công voa đang di chuyển trên mặt đất. Các dữ kiện liền được chuyển tới Predator và nó bắt đầu thăm dò đoàn công voa qua những cảm cụ video của nó. Các vị chỉ huy cách xa đó hàng trăm dặm quan sát những đoạn phim về đoàn công voa đang lăn bánh về hướng một ngôi nhà thờ nhỏ Hồi giáo. Họ gọi chiếc AC-130 đến tấn công. Trên đường đi đến, những hình ảnh từ chiếc Predator được chuyển thẳng tới chiếc máy bay vũ trang đến nỗi phi hành đoàn đã biết vị trí của mục tiêu trước cả khi họ bay qua. Khi chiếc máy bay đến nơi họp gần căn nhà thờ Hồi giáo nhỏ đó, nó khai hỏa tức thì, bắn những người cố chạy trốn về phía những chiếc xe đang đợi. Căn nhà thờ, được chỉ định như là mục tiêu "không được bắn", không hề bị mảy may gì.

Những nhà hoạch định chiến trường ở Ngũ Giác Ðài hay so sánh điều này với trường hợp thấy ở Chiến Tranh Vùng Vịnh, khi chiếc máy bay thông tin phải bay ngay ngày hôm sau mang những kế hoạch chủ chốt trên những đĩa chứa dữ kiện tới các hàng không mẫu hạm của Hải Quân. Những mục tiêu được liệt kê, trung bình, khoảng 72 tiếng đã trôi qua. Ở Afghanistan, ngược lại, nhiều mục tiêu - thay vì được nhận dạng 72 tiếng trước đó - đã xuất hiện chỉ "sau khi" những máy bay đã cất cánh từ hàng không mẫu hạm. hải Quân báo cáo 65% thành công trong việc đánh phá những mục tiêu "xuất hiện", có một số còn đang di chuyển khi bị đánh.

Tháng vừa qua ở Yemen, một chiếc máy đã một mình làm tất cả. Một mình chiếc Predator, điều khiển từ căn cứ xa xôi, đã thấy một mục tiêu nghi ngờ al Qaeda trên một chiếc xe thể thao SUV đang phóng chạy trên đường lộ, và hủy diệt nó bằng phi đạn Hellfire, gây tử thương cho 6 tên khủng bố.

 

o0o

 

Cuộc chiến tới sẽ có những kỹ thuật cao hơn. Nếu cuộc chiến là đánh Iraq, một nước có hệ thống phòng thủ trên không được xem là tối tân hơn Afghanistan, quân đội Hoa Kỳ sẽ chẳng chút nghi ngờ dùng những thế hệ mới được mệnh danh vũ khí "từ xa" mà không cần phải dùng ở Afghanistan. Vũ khí từ xa tạo khả năng cho quân đội Hoa Kỳ bắn những vũ khí chuẩn xác định hướng ra ngoài khỏi tầm tay của hệ thống phòng thủ khá hơn của đối phương.

Ấn tượng sâu đậm nhất là sự phát triển mới mẻ này, Phi Ðạn Hỗn Hợp Không Ðịa Từ Xa (Joint Air-to-Surface Stand Off Missle), một loại phi đạn phóng trên không có mức độ chính xác trong vòng 200 dặm. Nó được hướng dẫn bởi hệ thống quán tính GPS cho đến cuối đường bay, khi một bộ phận tìm tia hồng ngoại được thảo chương để nhận dạng những hình dáng rõ ràng của mục tiêu được tác động. Bộ phận tìm kiếm này hướng dẫn trái bom bay vào mục tiêu với độ chính xác khoảng 3 thước, khiến nó có thể được dùng, cho thí dụ, để nhận dạng và phá hủy nhịp cầu thứ ba hay đánh trúng lầu thứ tư của một cao ốc.

Ðã có vũ khí mới Hỗn Hợp Từ Xa, một loại bom bay là là định hướng bởi GPS có thể tìm mục tiêu cách xa từ 15 tới 47 dặm, tuỳ vào vận tốc và cao độ. (Khoảng cách của JDAM thì chỉ ở khoảng 6 tới 13 dặm).

Và có loại vũ khí Sensor Fuzed Weapon, được chế tạo để đánh xe tăng, thiết giáp loại nhẹ và những đoàn quân trong khoảng 30 mẫu địa hình thành tro bụi. Vũ khí này được thả từ máy bay, mở ra trong lúc trên không và thả ra 10 tên lửa (projectile), là là rơi xuống bãi chiến qua những chiếc dù nhỏ. Khi những tên lửa này gần chạm đất, những động cơ hỏa tiễn sẽ chạy nâng chúng lên cao trở lại, lúc đó mỗi chiếc (10 chiếc) sẽ phóng ra 4 đầu đạn kích thước bằng khoảng lon nước uống, tổng cộng 40 đầu đạn. Mỗi đầu đạn được trang bị cảm cụ với tia hồng ngoại và tia laser. Cảm cụ hồng ngoại kiểm tra trận địa và tìm những luồng nhiệt đã được thảo chương và cài với chúng, giống như những luồng nhiệt thải ra từ những chiến xa và những xe cộ khác. Một khi mục tiêu được nhận dạng, cảm cụ laser liền hướng dẫn đầu đạn lao vào nó. Nếu cảm cụ hồng ngoại xác định vị trí của xe tăng hay xe nào khác, nó sẽ khai hỏa một đầu đạn xuyên sắt. Nhưng nếu không có một xe pháo nào được thấy, cảm cụ sẽ khai hỏa đầu đạn trên không để rải trên trận địa với hàng ngàn những miểng chết người, hay mưa sắt.

Ngoài những loại bom mới này, những khoa học gia về bom ở căn cứ Elgin và những trung tâm nghiên cứu khác của Không Quân đã sản xuất được một loại đầu đạn tân trang chuyên công phá các hầm trú ẩn mà nét đặc biệt là một đầu nhọn dài chế bằng một dung hợp sắt và nickel-cobalt đã tạo khả năng cho đầu đạn xuyên thủng qua 11 bộ Anh (11 feets) của xi măng cốt sắt, tức đi xuyên qua khoảng cách tương đương 100 bộ Anh của mặt đất. Một cái "cầu chì tinh khôn" cho một đầu đạn xuyên phá như thế, dùng một máy gia tốc để tính số tầng trước khi phát nổ.

Những sự tiến triển này, tuy nhiên, không vào đâu khi so sánh với kỹ thuật hiện đại đang được phát triển và dự trù hoàn tất trong một thập niên là nhiều nhất.

Trái bom được coi là tinh khôn nhất hiện đang được phát triển tại căn cứ Elgin. Loại bom bay (winged bomb - loại bom có cánh) sẽ tìm kiếm các mục tiêu, theo dõi chúng, và rồi quyết định xem loại đầu đạn nào thích hợp nhất để công phá chúng - hoàn toàn tự nó hết.

Ðược trang bị với một động cơ phản lực nhỏ và nặng 85 cân Anh, mỗi trái bom - được gọi là Hệ Thống Tự Ðộng Công Phá Giá Hời (Low Cost Autonomous Attack Systems) - có thể bay 55 dặm tới mục tiêu và có thể lảng vảng trên trận địa 15 phút, lùng xục trong một diện tích rộng 25 cây số vuông với một cảm cụ sử dụng luồng laser để tạo ra những hình ảnh của các mục tiêu di động trên trận địa.

Ðể nhận dạng một mục tiêu đã phải cần tới "thuật toán tự động nhận biết mục tiêu" (automatic-target-recognition-algorithms) tác động trên cảm cụ dùng kỹ thuật thập phân (digital: làn sóng được ngắt ra từng phần và được biểu hiện bởi các con số thay vì dùng kỹ thuật tiếp nối (continuous) làn sóng không bao giờ gián đoạn. Một trong những lợi điểm của kỹ thuật thập phân là ít bị nhiễu xạ hơn - Nguyễn Phượng Hoàng) so sánh những gì được thấy trên mặt đất với những mẫu hình đã được chứa trong máy điện toán của trái bom. "Nó có thể phân biệt giàn radar SA-6 với SA-8 telar," theo lời ông James Moore, trưởng kế hoạch. "Hay giàn radar SA-6 khác với giàn phóng SA-6, cả hai đều có cùng một cái khung. Như vậy là quá hay. Một khi tự nó đã nhận ra đúng mục tiêu, nó sẽ lao xuống mục tiêu liền."

Ở đây, trái bom chứng tỏ cho thấy giai đoạn cuối của nó về sự tự thông minh, vũ trang đầu đạn, một trong hai cái như là đạn xuyên phá xe bọc sắt hay những mảnh giết người, tuỳ vào loại mục tiêu nào mà nó xác định. Giá cả của những trái bom "xuất sắc" này thì chỉ có $63.000 đô,  khoảng giá của kiểu bom laser định hướng hiện đại.

 

o0o

 

Khái niệm về một trái bom xuất sắc được thả bay tự do trên một trận địa đánh phá các mục tiêu theo ý của chính máy điện toán của nó khiến một số người coi nó như là loại vũ khí chuẩn xác trên không cuối cùng, và những người khác coi đó như là cơn ác mộng tối hậu.

Ðúng thế, hậu quả của sự gia tăng sức mạnh đánh từ trên không một cách chuẩn xác của Hoa Kỳ trong tương lai thì khó mà có thể đo được. Một trường hợp không giải quyết được: Bất cứ người nào cũng có thể truy cập tín hiệu của GPS bằng cách mua máy thu sóng thương mại (off-the-shelf), và đúng thế, có sự quan tâm là những tên khủng bố có thể phóng những phi đạn tự chế dùng GPS định hướng từ những chiếc tầu ngoài hải phận Mỹ. Một sự quan tâm khác là với kỹ thuật không ai sánh bằng của quân đội Mỹ sẽ, một cách đơn giản, đưa bọn khủng bố và các nước hung hăng tìm chiều hướng trả lễ dễ dàng hơn, tàn phá hơn  qua đường vũ khí hóa học, vi sinh và nguyên tử, hay những chiếc hãng máy bay chở toàn những hành khách vô tội.

Nhưng những người cổ võ cho sức mạnh không lực được tóm tắt lại qua ông John A. Warden III, một vị đại tá Không Quân về hưu, người đã đóng vai trò cầm đầu trong việc hoạch định chiến dịch trên không trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, nghĩ là sự gia tăng sức mạnh đánh phá toàn cầu của Hoa Kỳ chính là câu giải đáp: Ông ta lý luận rằng ngay cả những nước hung hăng cũng phải suy nghĩ cẩn thận về việc tích cực chế tạo các loại vũ khí giết người hàng loạt khi mà khả năng của Hoa Kỳ có thể tấn công không cả báo trước và đánh phá một cách chuẩn đích vô cùng.

Trong một cuốn sách mới tên là "Cuộc Cách Mạng Của Sự Chính Xác" viết bởi Michael Russell Rip và James M. Hasik có để ý đến sự nguy hiểm khi thúc ép các nước hung hăng ra khỏi chiến trường quy định, nhưng nhanh chóng thêm rằng "sức mạnh này đạt hầu như bằng kết quả của nguyên tử với những công phá thường đã có thể đưa đến một mức độ mới tránh được cuộc chiến bình thường. Sự gây hấn có thể hình dung sẽ bị phá ngang một cách đơn giản khi  danh sách mục tiêu của lực lượng Hoa Kỳđược cho xem... hay những bức ảnh của một người lãnh đạo ngoại quốc bị chộp bởi một chiếc Global Hawk."

Ông Warden biện luận rằng sự ưu việt của sức mạnh trên không là trung tâm của nền an ninh quốc gia. "Tôi đã không thể hừng chí thêm hơn," ông nói, "nếu chúng ta tiếp tục làm những công việc này một cách tích cực, không một lý do tại sao nào mà chúng ta không thể duy trì vị thế thống trị về mặt quân sự vô hạn định trong tương lai."

Ông Warden, tuy nhiên, không phải là đã thoả mãn hoàn toàn. Tuy hiện tại tốt, các người chỉ huy Hoa Kỳ đánh trúng chính xác những gì họ muốn, ông ta nói, họ không nghĩ hạn hẹp đâu. "Nếu anh biết có một nhóm người xấu trong một căn phòng, theo lý thuyết thì anh chẳng có một lý do gì để phá tan cả căn nhà." Ông Warden nói, lý luận rằng những cú đánh chuẩn đích, ít ra theo lý thuyết, đã cho Hoa Kỳ một khả năng để tiến hành một cuộc chiến "không giết bất cứ một người nào mà chúng ta rõ ràng không muốn giết."

Bà Sarah Sewall, một vị trưởng chương trình của Trung Tâm Carr về Chính sách Nhân Quyền của viện đại học Harvard, trường Kennedy Khoa Chính Quyền, nói rằng Hoa Kỳ thì hãy còn rất xa để thực hiện viễn kiến của ông Warden. Nhưng ngay cho dù quân đội Hoa Kỳ có những phương tiện kỹ thuật, bà Sewall biện luận, nó thì còn xa cách để những trái bom tinh khôn có những dữ kiện cần thiết để khiến bom tinh khôn trở nên khôn, đó là tình báo quyết định chúng được dùng ở đâu - một vấn để đã được thấy mới đây nhất trong một cuộc tấn công tháng 6 vào khẩu súng phòng không ở Afghanistan đã vô tình giết ít nhất 40 thường dân vô tội trong một tiệc cưới gần đó. "Anh có thể đánh chuẩn đích", bà ta nói, "đúng ngay vật mà không nên đánh."

Ông Kenneth Roth, giám đốc điều hành của Human Right Watch ở New York, tin rằng điều nguy hiểm nhất của những vũ khí mới này có lẽ là niềm tin quá mãnh liệt rằng họ có thể chém đầu một kẻ địch trong khi giảm tối thiểu sự tổn thất của thường dân. Với sự giả định rằng mặt xấu của chiến tranh đã biến mất, những nhà hoạch định chiến trường có lẽ sẽ không ngần ngại bóp cò súng. "Sự gia tăng niềm tin trên những vũ khí chuẩn đích thì không được thay thế cho việc tự kiểm duyệt nghiêm trọng," ông Roth nói, "Và Ngũ Giác Ðài thuờng thì từ chối làm một cuộc phân tích cẩn trọng để xem, đúng ra, mình đã làm tất cả có thể được (ở Afghanistan, Yugoslavia, Bosnia và cuộc chiến vùng Vịnh) để tránh những thương vong cho thường dân hay không."

Bộ Tư Lệnh Trung Ương Hoa Kỳ, cho thí dụ, đã kiểm chứng những hoàn cảnh xung quanh việc tử thương trong tiệc cưới vào tháng 6, chuyện xẩy ra khi chiếc AC-130 đã tấn công một khẩu súng phòng không, và kết luận cuộc tấn công đã dựa trên sự chính xác của tin tình báo và trong phạm vi của luật giao chiến (rules of engagement), mặc dù nó đã gây thương vong hàng tá đàn bà và trẻ em. Phi hành đoàn của chiếc máy bay vũ trang đã thấy vị trí khẩu súng phòng không bắn từ đâu nhưng đã không thấy một tiệc cưới đang có ở gần đó.

Ông Bill Perry, cha đẻ của tàng hình, đứng giữa cuộc tranh luận về lợi ích của những cuộc đánh phá chuẩn đích. Hiện giờ dậy học tại viện đại học Stanford, ông công nhận sự ưu việt mãnh liệt của quân đội Hoa Kỳ có lẽ sẽ đẩy các nước hung hăng cố phát triển những vũ khí giết người hàng loạt chóng hơn là họ định.

Nhưng ông tiếp tục tin như trong quá khứ và lạc quan về những lợi ích của nền kỹ thuật, nếu những quyết định tối hậu về những mục tiêu đánh phá phải bởi con người, không phải máy này cho tín hiệu tới  máy kia để tự động khai hỏa. "Tôi hy vọng chúng ta đủ trình độ để dùng nó một cách thích đáng, có nghĩa giữ con người có sự suy nghĩ và được huấn luyện đầy đủ trong vòng quyết định."ã